Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)
Showing posts with label kinhte. Show all posts
Showing posts with label kinhte. Show all posts

Tuesday, October 15, 2024

Cuộc xâm lăng không tiếng súng

Cuộc xâm lăng không tiếng súng

Trong thời đại toàn cầu hóa, Internet và các tiến bộ công nghệ về thương mại điện tử (TMĐT) đã mở ra nhiều cơ hội cho việc kinh doanh xuyên biên giới. Ngày nay, mọi người không còn lạ gì với các nền tảng TMĐT như Amazon, Alibaba... Ở Việt Nam, việc mua sắm thông qua các nền tảng thương mại điện tử như: Shoppee, Tiktok, Lazada, Tiki... đã trở nên ngày càng quen thuộc với giới trẻ. Tuy nhiên, gần đây với sự trỗi dậy của các nền tảng TMĐT xuyên biên giới như Taobao, Temu... với khả năng cung ứng hàng hóa với giá cực rẻ, thời gian và chi phí giao hàng được rút ngắn đáng kể khiến nhiều quốc gia lo ngại về sự cạnh tranh không lành mạnh và đe dọa đối với các nhà sản xuất nhỏ ở trong nước. Bên cạnh việc ứng dụng các tiến bộ công nghệ trong việc tiếp thị và quản lý chuỗi cung ứng, các nền tảng này có sự phát triển nhanh chóng còn nhờ vào sự hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ Trung Quốc cho việc vận hành các tổng kho dọc biên giới các nước Đông Nam Á, sự lỏng lẻo trong cơ chế thu thuế của các quốc gia, và khả năng kiểm soát chất lượng sản phẩm kém của các quốc gia nhập khẩu.

Một vài con số thống kê (trích dẫn từ Dantri.com.vn) cho thấy sự tăng trưởng thần tốc của các nền tảng TMĐT xuyên quốc gia của Trung Quốc. Giá trị xuất nhập khẩu thương mại điện tử xuyên biên giới tăng vọt lên 2.380 tỷ nhân dân tệ (336 tỷ USD), tăng 15,6% so với năm trước đó. Đáng chú ý là phân khúc xuất khẩu đã chứng kiến sự tăng trưởng đột biến 19,6%, vượt qua mức tăng 10,1% của năm 2022 và đạt tổng giá trị 1.830 tỷ nhân dân tệ (258 tỷ USD). Đến quý I năm 2024, tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu qua thương mại điện tử xuyên biên giới đạt 577,6 tỷ nhân dân tệ (81,6 tỷ USD), tăng 9,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Riêng xuất khẩu đạt 448 tỷ nhân dân tệ (63,3 tỷ USD), tăng 14%. Theo số liệu từ Bộ Thương mại Trung Quốc, tính đến cuối tháng 5/2024, quốc gia tỷ dân này có hơn 120.000 doanh nghiệp thương mại điện tử xuyên biên giới, hơn 1.000 khu công nghiệp thương mại điện tử xuyên biên giới. Các công ty Trung Quốc cũng đang sở hữu hơn 2.500 kho hàng ở nước ngoài với tổng diện tích 30 triệu m2. Trong đó, hơn 1.800 kho hàng chuyên phục vụ thương mại điện tử xuyên biên giới, với tổng diện tích 22 triệu m2.

Có thể so sánh sự trỗi dậy của các nền tảng TMĐT xuyên biên giới này, đặc biệt với sự xuất hiện và phát triển nhanh chóng của Temu và các nền tảng tương tự của Trung Quốc là một cuộc xâm lăng mới của thế kỷ 21. Cuộc xâm lăng này không có tiếng súng, nhưng rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gục ngã vì không thể cạnh tranh với làn sóng hàng giá rẻ tràn ngập thị trường. Người tiêu dùng sẽ được lợi trong ngắn hạn, nhưng sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề hơn trong tương lai như: hàng kém chất lượng, khó đổi trả, bị điều hướng bởi các trang mạng xã hội, ngày càng lệ thuộc vào các nền tảng này khi các sản phẩm tương tự trong nước không thể tồn tại được... Khi các doanh nghiệp nhỏ trong nước không thể tồn tại, thì số lượng doanh nghiệp đóng cửa/ phá sản ngày càng tăng, số người thất nghiệp cũng sẽ gia tăng và nền kinh tế có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng. Đó là lý do vì sao nhiều quốc gia nhìn nhận sự tăng trưởng nhanh chóng của các nền tảng TMĐT xuyên biên giới này là một mối đe dọa và cần phải tìm ra những giải pháp để bảo hộ các doanh nghiệp nhỏ trong nước.

Trước bối cảnh xâm nhập và phát triển nhanh chóng của Temu và các nền tảng TMĐT xuyên biên giới tương tự, các quốc gia Đông Nam Á đang thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để ứng phó với hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc, đặc biệt là những mặt hàng được kinh doanh thông qua các nền tảng thương mại điện tử. Ví dụ: Malaysia đã áp dụng thuế bán hàng 10% đối với hàng hóa nhập khẩu được mua trực tuyến với giá dưới 500 ringgit (116 USD) vào tháng 1/2024. Tương tự, từ tháng 5/2024, Thái Lan áp dụng thuế giá trị gia tăng (VAT) 7% đối với hàng hóa nhập khẩu có giá trị dưới 1.500 baht (44,76 USD). Đồng thời, thủ tướng Thái Lan cũng chỉ đạo Bộ Thương Mại có biện pháp để hạn chế tình trạng hàng giá rẻ tràn ngập thị trường thông qua TMĐT xuyên biên giới. Chính phủ Indonesia đã lên kế hoạch áp thuế nhập khẩu lên tới 200% đối với nhiều loại hàng hóa bao gồm hàng dệt may, quần áo, giày dép, mỹ phẩm và đồ điện tử... Bộ trưởng Thương mại Indonesia, cho biết trong một cuộc họp báo vào tháng 7/2024 "Nếu Indonesia tràn ngập hàng nhập khẩu, các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa có thể sẽ phá sản".

Trong khi đó, dường như Việt Nam chưa có động thái gì để đối phó với làn sóng xâm nhập mới của hàng giá rẻ qua các nền tảng TMĐT như Temu. Mọi người vẫn hào hứng với những chủ đề vĩ mô như Chuyển đổi số, CMCN 4.0 hay AI, mà chưa mấy ai nhận ra hiểm họa to lớn đến từ những nền tảng TMĐT xuyên biên giới này. Nhiều đại biểu quốc hội vẫn loay hoay thảo luận những vấn đề dường như chẳng liên quan trực tiếp đến số mệnh của nhiều doanh nghiệp kinh doanh và sản xuất nhỏ lẻ. Đã đến lúc cần phải gióng lên tiếng chuông cảnh báo trước hiểm họa xâm lăng mới, mà cực kỳ nguy hiểm đối với nền kinh tế quốc gia. Ít nhất chúng ta cũng cần nhận thấy hiểm họa và cần có những chính sách ngăn chặn làn sóng hàng giá rẻ tràn ngập thị trường, và bảo hộ các doanh nghiệp kinh doanh và sản xuất nhỏ trong nước. 

Hãy học những gì các nước bạn trong khu vực Đông Nam Á đã làm trong việc dựng lên các tiêu chuẩn kỹ thuật, hàng rào thuế quan, hỗ trợ các DN nhỏ trong nước với những điều kiện thuận lợi trong việc xuất nhập khẩu và khai thác các nền tảng công nghệ mới để cải thiện hiệu quả vận hàng, giảm các chi phí thủ tục về hải quan, logistics... Muốn phát triển kinh tế đất nước, muốn dân giàu, nước mạnh thì các quan chức, viên chức cần phải tận tụy với trách nhiệm của mình, bảo hộ và hỗ trợ các DN trong nước tồn tại và phát triển, sửa chữa những bất cập về chính sách. Hy vọng chúng ta sẽ có được những lãnh đạo thật sự vì dân, vì nước để có thể tìm được giải pháp đối phó với cuộc xâm lăng không tiếng súng này. Mong lắm thay!

PQ. Trung


Wednesday, September 14, 2016

Sáng tạo, đổi mới trong nền kinh tế tri thức

Sáng tạo, đổi mới trong nền kinh tế tri thức

Toàn cầu hóa và sự thay đổi nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã khiến mọi thứ nhanh chóng trở nên lạc hậu, và không còn phù hợp nữa, nếu không đổi mới, thay thế thì chúng có thể trở thành những rào cản cho sự phát triển và tiến bộ của tổ chức và xã hội. Nhu cầu đổi mới này không chỉ giới hạn ở các tổ chức kinh doanh, mà nó đã nhanh chóng mở rộng cả về phạm vi (quốc gia, khu vực, quốc tế), và cả về lĩnh vực (chính trị, văn hóa, xã hội…). 
Theo Stiglitz, một nhà kinh tế lớn của World Bank, ngày nay, tri thức đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế và đảm bảo phúc lợi xã hội. Vì vậy, cần phải xem xét các vấn đề phát triển kinh tế dưới góc nhìn tri thức, ở đó, giáo dục đóng một vai trò dẫn dắt cho sự phát triển. Trong nền kinh tế tri thức đó, sáng tạo và đổi mới là cực kỳ quan trọng.
Hơn nữa, theo Savage (1996) trong tác phẩm “Fifth Generation Management”, xã hội loài người đang bước vào làn sóng thứ 3 của sự phát triển: làn sóng thứ 1 là thời đại Nông nghiệp, sự giàu có đặt trên việc sở hữu đất đai; làn sóng thứ 2 là thời đại Công nghiệp, sự thịnh vượng dựa trên sự sở hữu vốn tư bản; và làn sóng thứ 3 là thời đại Tri thức, sự thịnh vượng đặt trên việc sở hữu tri thức và khả năng sử dụng tri thức để tạo ra và cải tiến các sản phẩm và dịch vụ. Chính vì vậy, ở thời đại này, quốc gia nào tạo được nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn vốn trí tuệ (phát triển giáo dục, thu hút nhiều nhân tài hơn, khuyến khích sáng tạo…) và biến nó thành giá trị nhằm phát triển đất nước thì sẽ có được vị thế cao trong cộng đồng quốc tế.
Sáng tạo và đổi mới là 2 khái niệm thường đi liền với nhau và có ý nghĩa tương đồng với nhau. Tuy nhiên, đổi mới thường chỉ đến những thay đổi về phương pháp hoặc quy trình ở phạm vi tổ chức hoặc quốc gia, còn sáng tạo thường chỉ đến năng lực tạo ra tri thức mới của cá nhân (Boulden, 2004). Thuật ngữ “đổi mới sáng tạo” khi gộp chung thường được hiểu là quá trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ và quy trình mới nhằm tăng năng suất, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và tính cạnh tranh trên thị trường. Đổi mới sáng tạo (Innovation) cũng là quá trình biến những ý tưởng mới, kiến thức mới thành các sản phẩm, dịch vụ và quy trình mới, đáp ứng nhu cầu của thị trường, mang lại lợi ích thiết thực cho người lao động và xã hội. Nói tóm lại, đổi mới & sáng tạo chính là hoạt động tạo ra tri thức mới, làm phát triển nguồn vốn trí tuệ, góp phần nâng cao giá trị của sản phẩm, dịch vụ, tăng năng suất lao động, cải thiện hiệu quả công việc và chất lượng cuộc sống.
Trong các nghiên cứu hàn lâm, “đổi mới” thường được phân thành 2 loại là: đổi mới tiệm tiến (incremental innovation), và đổi mới đột phá (disruptive innovation). Đổi mới tiệm tiến chỉ đến các sáng kiến, cải cách, sửa đổi nhỏ để hoàn thiện dần sản phẩm, quy trình. Còn đổi mới đột phá chỉ đến các thay đổi mang tính cách mạng, như là: công nghệ, giải pháp, sản phẩm mới hoàn toàn, nó góp phần thay đổi thị trường, tạo ra cách tiếp cận mới, hoặc thay đổi thang giá trị sẳn có.
Ở Nhật, có một thuật ngữ tương tự như đổi mới tiệm tiến, đó là "Kaizen". Tuy nhiên, kaizen đã được phát triển và trở thành một triết lý được áp dụng một cách sinh động trong nhiều công ty, tổ chức của Nhật Bản. Về mặt từ nguyên, “Kai” có nghĩa là “thay đổi”, còn Zen có nghĩa là “trở nên tốt hơn”. Triết lý Kaizen đề ra 5 yếu tố nền tảng và 3 nguyên lý. Năm yếu tố nền tảng của Kaizen bao gồm: (1) Làm việc nhóm (Teamwork), (2) Kỷ luật tự thân (Personal discipline), (3) Phát huy ý chí (Improved morale), (4) Vòng tròn chất lượng (Quality circles), (5) Đề xuất cải tiến (Suggestions for improvement). Ngoài ra, kaizen còn phát triển 3 nguyên lý là: (1) Loại bỏ lãng phí và kém hiệu quả, (2) Áp dụng nguyên tắc 5S (gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, trật tự, kỷ luật) cho quản lý văn phòng và gia đình, và (3) Chuẩn hóa.
Ở Việt Nam, ta thường nghe nhiều đến cụm từ "đổi mới", đặc biệt là liên quan đến chính sách mở cửa nền kinh tế từ những năm 1980. Tuy nhiên, khái niệm “đổi mới” thường có ý nghĩa vĩ mô, ở phạm vi nhà nước, mà ít gắn với các hoạt động của doanh nghiệp. Trong khi, khái niệm “sáng kiến”, “sáng tạo” lại thường được hiểu ở khía cạnh vi mô, gắn trực tiếp với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. 
Một thế kỷ trước, cụ Phan Bội Châu đã đến Nhật tiếp thu triết lý kaizen và đề xướng phong trào Duy Tân ở nước ta. Rất tiếc là phong trào Duy Tân kéo dài không lâu, nên cũng chưa tạo được thay đổi nào đáng kể, và chưa tạo được ảnh hưởng sâu rộng trong lối suy nghĩ và lối sống của người Việt Nam. Để tiếp nối ý nguyện đó, đồng thời đưa đất nước phát triển trong thời đại tri thức này, việc khuyến khích đổi mới sáng tạo, ở cả phạm vi nhà nước và doanh nghiệp là cấp bách hơn bao giờ hếtđối với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Lúc này, nếu không đổi mới, cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận nhìn thấy đất nước mình sẽ tụt hậu ngày càng xa trong cuộc tranh đua quốc tế, mà tốc độ và mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thời đại ngày nay đòi hỏi chúng ta phải hành động một cách nhanh chóng, dứt khoát và không thể chần chừ hơn nữa, bởi nếu chần chừ trong việc đổi mới nghĩa là chúng ta đã có tội với các thế hệ cha ông vì đã không thực hiện được mong mỏi của các vị, và cũng có tội cả với các thế hệ con cháu sau này khi để đất nước ngày càng tụt hậu so với các nước khác trên thế giới.
Trách nhiệm to lớn này đặt lên vai tất cả mọi người Việt Nam, đặc biệt là trông chờ ở thế hệ trẻ, những người có đầu óc dám đổi mới, biết học hỏi, tiếp thu tri thức khoa học và công nghệ, tạo ra những giá trị độc sáng dựa trên tri thức và óc sáng tạo, đưa đất nước vững bước phát triển đi lên theo kịp với các nước tiên tiến trên thế giới. Chỉ có con đường đổi mới và sáng tạo không ngừng mới có thể đưa đất nước cất cánh đi lên, mang lại sự thịnh vượng, ấm no cho cả dân tộc, và giúp người Việt Nam có thể hãnh diện “sánh vai” cùng bạn bè năm châu, bốn biển, như ước vọng muôn thuở của cha ông ta.
Nhiều nghiên cứu trước (Nonaka & ctg., 2010; Carr, 2013) đã chỉ ra rằng năng lực sáng tạo của cá nhân không những phụ thuộc vào kiến thức của họ, mà còn phụ thuộc vào khả năng tư duy và nhìn nhận vấn đề một cách khác biệt, từ đó khám phá ra cách thức mới hoặc phương pháp mới để giải quyết vấn đề. Ở mức độ tổ chức, năng lực đổi mới sáng tạo gắn liền với quá trình quản lý nguồn vốn tri thức, và biến nó thành các giá trị của tổ chức dưới dạng sáng chế và sáng kiến. Sáng chế và sáng kiến là 2 khái niệm khá gần gũi và thường được hiểu giống nhau. Tuy nhiên, cụ thể hơn, sáng chế là chỉ đến 1 giải pháp cho 1 vấn đề kỹ thuật (có thể là 1 ý tưởng đổi mới, hoặc 1 mô hình hoặc sản phẩm mẫu vận hành được); còn sáng kiến là chỉ đến việc chuyển sáng chế thành các sản phẩm hoặc quy trình có thể bán được trên thị trường (Cục SHTT, 2008). Ngày nay, để nâng cao năng lực sáng tạo, các tổ chức đều phải đầu tư đáng kể vào hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), đồng thời, phải tạo ra một môi trường văn hóa cởi mở, thân thiện và có chính sách hỗ trợ hoạt động sáng tạo của các cá nhân trong tổ chức.
Trong nền kinh tế ngày nay, việc quản lý sáng kiến trong công ty đòi hỏi nhà quản lý phải có một kiến thức vững vàng về hệ thống sáng chế để đảm bảo công ty có thể thu được lợi ích tối đa từ khả năng đổi mới và sáng tạo của mình. Ngoài ra, tổ chức cần xây dựng quan hệ đối tác có lợi (bao gồm: quy chế bảo mật, quy chế quản trị tài sản trí tuệ, hợp đồng chuyển giao công nghệ, mua/ bán li xăng…) với các chủ thể sáng chế và cần tránh việc sử dụng trái phép công nghệ do người khác sở hữu. Khác với trước đây, nhiều sáng kiến ngày nay rất phức tạp và phải dựa trên nhiều sáng chế thuộc sở hữu của nhiều chủ sở hữu sáng chế khác nhau.
Đứng từ góc độ luật về sở hữu trí tuệ, đầu ra của quá trình sáng tạo và đổi mới chính là những sản phẩm trí tuệ, chúng được tạo ra theo một chuỗi giá trị bên trong 1 tổ chức, bao gồm: hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D), sản xuất, bán hàng & tiếp thị… hoặc liên tổ chức, như: nghiên cứu & phát triển, chuyển giao tri thức (đại học, viện nghiên cứu), thử nghiệm, sản xuất & tiêu thụ (doanh nghiệp). Tuy nhiên, để được bảo hộ bởi luật sở hữu trí tuệ và mang lại giá trị cho tổ chức, các ý tưởng, sáng kiến phải biến thành các tài sản trí tuệ, được đăng ký bảo hộ với cơ quản quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, dưới các hình thức như: quyền tác giả, bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích, bí mật kinh doanh, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu …
Đối với cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, một ý tưởng sản phẩm, quy trình hay công nghệ mới muốn được bảo hộ, cần phải thỏa mãn các tiêu chí, trong đó 2 tiêu chí quan trọng nhất là tính sáng tạotính mới. Tính sáng tạo được hiểu là đối tượng phải chưa được công bố và có khác biệt đáng kể với những đối tượng đã được bộc lộ công khai trước đó. Tính mới được hiểu là đối tượng cần bảo hộ phải không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình trong lĩnh vực đó (điều này đòi hỏi sự nổ lực, kiến thức, và khả năng tư duy của tác giả).

Trong xu thế chú trọng vào sáng tạo và đổi mới đó, một khái niệm cũng có liên quan và được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây là sáng nghiệp (entrepreuneuship). Có thể xem sáng nghiệp/ khởi nghiệp là mức cao nhất của quá trình đổi mới và sáng tạo, bởi nó không chỉ hướng tới việc cải tiến quy trình, công nghệ, hay tạo ra một sản phẩm/ dịch vụ mới, mà nó còn hướng tới việc đem những ý tưởng mới vào kinh doanh, hoặc lập ra một doanh nghiệp mới dựa trên những sáng kiến, hoặc những kết quả thu được từ quá trình sáng tạo, đổi mới. Ngày nay, các trường đại học, viện nghiên cứu và chính phủ đều bắt đầu đề cập đến tầm quan trọng của khởi nghiệp, và thúc đẩy đào tạo về khởi nghiệp nhằm tạo ra sự năng động của nền kinh tế, và đảm bảo sự cạnh tranh hiệu quả trong thế kỷ 21.
(Nguồn: Giáo Trình Quản lý Tri Thức, NXB. Xây dựng, 2016)
---
PS. Bạn nào quan tâm đến lĩnh vực này có thể tìm đọc Giáo trình trên ở quầy sách ĐHBK nhé!

Tuesday, July 12, 2011

QUAN NIỆM VỀ KINH TẾ TRONG PHẬT GIÁO

QUAN NIỆM VỀ KINH TẾ TRONG PHẬT GIÁO
HT. Thích Trí Quảng


Theo lịch sử tiến hóa của loài người, từ thời kỳ nguyên thủy, dân số trên trái đất này còn rất ít. Vì thế, sự ưu đãi của thiên nhiên mà con người được thừa hưởng rất lớn. Dĩ nhiên lúc đó, người ta không phải đặt vấn đề về kinh tế, mọi người chỉ sống và hưởng thụ tài sản của thiên nhiên một cách đơn giản.

Nhưng đến giai đoạn dân số được phát triển với đời sống con người được tập hợp thành bộ tộc thì vấn đề bắt đầu xảy ra, vì đã xuất hiện sự tranh chấp về những nguồn lợi thiên nhiên.
Và sang đến thời kỳ mà đời sống của bộ tộc phát triển, các bộ tộc mạnh bắt đầu đi thôn tính những bộ tộc yếu kém hơn để chiếm đoạt những nguồn lợi của thiên nhiên mà địa phương họ không có. Từ đó, mới hình thành các quốc gia ở thời kỳ phong kiến, khi muốn thể hiện sức mạnh của họ, muốn làm bá chủ các nước khác, thì vấn đề phát triển kinh tế quốc gia tất yếu được coi là quan trọng.

Đức Phật đã ra đời trong thời kỳ hình thành và phát triển của các quốc gia trên quả địa cầu này. Có thể nói vấn đề kinh tế ở thời kỳ đó đã được đặt lên hàng đầu, vì nước nào có tài nguyên thiên nhiên phong phú là nước đó giàu có; nước nào có dân số đông mới mạnh. Với sự giàu có và đông dân, nước đó mới có thể tổ chức những đoàn quân viễn chinh đi xâm chiếm các nước khác, để cướp bóc tài sản của con người và tài sản thiên nhiên ở nước khác về làm giàu cho nước họ. Bấy giờ, sức mạnh về người và của cải đóng vai trò quyết định cho sự bành trướng lãnh thổ quốc gia cả trong địa lý lẫn kinh tế, mà ngày nay chúng ta thường nói là sức người, sức của. Vì thế, chúng ta thấy rõ mọi quốc gia lúc đó đều chủ trương phát triển dân số và phát triển kinh tế để phục vụ cho mục tiêu xâm lăng và làm cho nước họ trở thành giàu có, hùng mạnh.

Đức Phật sống trong thời kỳ này, Ngài nhận thấy tình trạng bất công của xã hội như vậy, mới nói rằng chỉ vì miếng ăn mà các loài tranh giành, giết hại lẫn nhau. Vì vậy, Ngài luôn suy tư để tìm cách sống có thể đem lại sự an lành cho mọi người và tất cả các loài. Chủ trương của Đức Phật là làm sao phát triển đời sống của cá nhân mà không làm tổn hại đến người khác, làm sao phát triển đời sống của con người mà không làm tổn hại đến các loài sinh vật khác, cho đến sự sống của các loài vô tình như hoa lá, cỏ cây cũng cần được tôn trọng, bảo vệ. Đó chính là lý do mà Đức Phật của chúng ta đã xuất gia và dành hết thì giờ cùng tâm sức trong cuộc sống của Ngài để tìm ra phương thức hóa giải mọi sự xung đột, sát hại giữa con người với nhau và giữa con người với muôn loài sống chung trên trái đất này.

Với mục tiêu đặt ra như vậy, sau khi thành đạo, Đức Phật đã đi khắp mọi nơi của miền Ngũ hà ở Ấn Độ để giảng dạy chân lý mà Ngài đã tìm ra. Những người may mắn gặp Phật và tiếp nhận được sự giáo hóa của Ngài đã thay đổi được cuộc sống vật chất lẫn tinh thần và ngày càng trở thành tốt đẹp, giáo lý của Ngài cũng giúp cho họ quản lý được xã hội an lành, phát triển hơn. Chúng ta còn nhớ lịch sử đã ghi lại cuộc hòa giải thành công một cách thật nhẹ nhàng của Đức Phật . Hai quốc gia tranh giành chủ quyền về con sông giữa hai nước và cuộc xung đột lên cao điểm đến độ cả hai nước đều dàn binh lính để sẵn sàng giết nhau. May thay, Đức Phật đã xuất hiện và bóng mát an lành của ngài đã xóa tan lửa sân hận, cùng với những lời khuyên sáng suốt và tràn đầy từ ái của Ngài đã khiến cho hai đạo quân buông bỏ vũ khí, chiến tranh được dập tắt. Nghe theo lời Phật dạy, cả hai nước đều vui vẻ cùng sử dụng chung dòng nước của con sông.

Sau khi Đức Phật nhập diệt, tư tưởng của Ngài được phân chia thành hai bộ phái là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Thượng tọa bộ đi theo con đường tiến tới Niết bàn để thực hiện cho được lý tưởng của cuộc sống. Đó là nếp sống không làm tổn hại các sinh vật khác và cũng khuyên mọi người nên thực hiện cuộc sống phát triển bản thân mà không xâm hại đến những người khác, đến các loài khác. Đây chính là quan niệm của Phật giáo Nguyên thủy. Với nền tảng của nếp sống như vậy, những hành giả của Thượng tọa bộ hạn chế tối đa đời sống đòi hỏi thú vui vật chất để có được niềm vui tinh thần và phát triển niềm an lạc cao nhất là Niết bàn.
Bộ phái thứ hai là Đại chúng bộ với tư tưởng tiến bộ cho rằng nếu đời sống cá nhân của người tu đưa đến giải thoát theo phương cách như vậy, mà không quan tâm đến mọi sinh hoạt của những người xung quanh hoàn toàn khác với mình, thì giải thoát này mang tính cách tiêu cực và đôi khi còn bị tác động ngược lại của xã hội khiến cho họ không thể giải thoát được.
Với lý giải này, tư tưởng Phật giáo phát triển đã chủ trương rằng giải thoát cho người là giải thoát cho mình, làm cho xã hội tốt đẹp là làm cho mình tốt đẹp. Từ đó, Phật giáo Đại thừa phát triển đời sống hành Bồ tát đạo, tức lo phục vụ mọi người, giúp đỡ mọi người có đời sống vật chất phát triển và tinh thần thăng hoa mới chính là giải thoát thực sự và lâu dài của hành giả đi theo dấu chân Phật.

Thể hiện tư tưởng này là các bộ kinh như Bảo Tích, Duy Ma, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, v.v… đều đề cao vấn đề Bồ tát đạo, nghĩa là xây dựng một xã hội tốt đẹp. Nói cách khác, lý tưởng của Bồ tát đạo bấy giờ là thiết lập cõi Tịnh độ ở nhân gian, tức phát triển đời sống vật chất và tinh thần đến mức độ cao nhất, mà không gây tác hại cho mọi người và cũng không làm tổn hại sự sống của tất cả các loài cùng hiện hữu trên hành tinh này.

Nói theo ngày nay, mô hình Tịnh độ của Bồ tát đề ra là xây dựng xã hội văn minh, giàu có, nhưng không gây ra ảnh hưởng độc hại đến mọi người và không làm hư hại môi trường sống của con người, của muôn loài và của trái đất.
Một xã hội tốt đẹp cần có đủ bốn yếu tố quan trọng là không khí trong lành cho mọi người hít thở, không gây ra bệnh tật, đất đai sạch và nước sạch để con người sống khỏe mạnh và điều quan trọng không kém là tâm hồn con người cũng trong sạch.

Các Bồ tát dấn thân thực hiện lý tưởng này, thì tất cả mọi người trong xã hội cũng phải đồng tâm hiệp lực trong việc xây dựng xã hội tốt đẹp, lành mạnh như vậy. Vì chỉ có một người xây dựng mà người khác phá thì không có việc nào thành tựu được.

Tinh thần Bồ tát đạo theo hướng tích cực xây dựng xã hội như vậy đã thể hiện chiều hướng ngược lại với tư tưởng tiêu cực nghĩ rằng chỉ lo giải thoát cho riêng mình thôi, còn ai làm gì cũng được. Nhưng thực tế cuộc sống ngày nay cho thấy rõ sự ảnh hưởng cộng tồn mật thiết giữa con người với nhau, giữa con người với các loài và giữa con người với môi trường. Nếu để cho những người nhân danh phát triển kinh tế toàn quyền khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên theo hướng trục lợi, ích kỷ, chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng của cá nhân, của quốc gia họ, gây tác hại cho không khí, đất đai, sông biển bị dơ bẩn, ô nhiễm bởi các chất độc hại của nhà máy thải ra, hoặc khai thác cạn kiệt các tài nguyên thiên nhiên gây ảnh hưởng đến môi sinh, thì chắc chắn sự sống của chúng ta cũng bị đe dọa.

Thấm nhuần tinh hoa của Phật dạy, rằng muôn sự muôn vật trên hành tinh này có mối tương quan tương duyên sâu xa, có sự cộng tồn hỗ tương mật thiết, chúng ta hiểu loài người hay bất cứ loài nào đều không thể sống tách biệt mà an ổn được. Vì thế, Phật giáo Đại thừa luôn để tâm đến sự phát triển môi trường, phát triển thiên nhiên, phát triển xã hội để giúp cho đời sống kinh tế của mọi người, của đất nước được nâng cao. Điển hình là kinh Đại Bảo Tích đã giới thiệu pháp hội Vô Lượng Thọ nói về công hạnh của Đức Phật Di Đà và mô hình tốt đẹp tuyệt đối của thế giới Cực Lạc ở Tây phương do Ngài xây dựng và điều hành.

Đức Phật Di Đà đã thiết kế thế giới Cực Lạc có đầy đủ những tiện nghi hoàn hảo nhất cho cư dân sống ở đó. Thật vậy, với hệ thống Liên Hoa hóa sinh, không phải thai sinh, người dân ở Cực Lạc sinh ra từ hoa sen đều có thân thể khỏe mạnh, tinh khiết, vô nhiễm. Ngoài ra, người dân ở Cực Lạc được nuôi dưỡng bằng nước bát công đức, nghĩa là tâm đại bi thuần tịnh của Phật Di Đà tẩy sạch trần tâm của họ và nuôi lớn tâm Bồ đề của họ, tác động cho họ được an lạc, thanh tịnh. Đến khi họ chứng được Vô sinh Pháp nhẫn, tức đã chuyển hóa từ thể xác đến tâm lý hoàn toàn tốt lành, thì họ sinh ra với đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, và được sinh hoạt với Thánh chúng là những người có hiểu biết cao tột, có đạo đức vô cùng.

Ngoài ra, Phật Di Đà cũng tạo môi trường sống trong lành cho người dân ở Cực Lạc, ở đó đất bằng lưu ly, bảy hàng cây báu, bảy màn lưới giăng … tiêu biểu cho một thế giới thuần khiết với đất sạch, không khí sạch và nước sạch, v.v… Cũng có các loài chim như bạch hạc, khổng tước, ca lăng tần già… nói được pháp Phật, giúp cho người dân nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng; nghĩa là làm cho họ phát chí hướng thượng, nỗ lực phát huy trí tuệ và đức hạnh như Phật, có hiểu biết chính xác và sống hòa hợp thanh tịnh, làm việc ích lợi cho tập thể.

Ngày đêm ở Cực Lạc chỉ nghe nhạc trời, thấy hoa trời, bất cứ âm thanh và hình ảnh nào ở Cực Lạc cũng tác động cho người dân phấn đấu thăng hoa; trong khi ngành công nghệ phim ảnh và ca nhạc của một số nước văn minh, giàu có ngày nay được khai thác theo hướng xấu. Họ thu được lợi nhuận rất nhiều và dĩ nhiên sự phát triển sức mạnh kinh tế của lĩnh vực hoạt động giải trí này rất lớn. Nhưng sự phát triển đời sống vật chất và sự hưởng thụ tinh thần theo hướng không lành mạnh, sa đọa như vậy đã gây tác hại, nguy hiểm vô cùng cho giới thanh thiếu niên và cũng tạo ra sự bất an cho xã hội. Thực tế cho thấy phim ảnh và ca nhạc, múa hát đồi trụy đã gây kích động, bạo lực, bạo hành cho người nghe, người xem, đã tạo thành một lớp người hung ác thường sát hại người khác, thích tàn phá mọi thứ, thích gây rối loạn, bạo động trong xã hội. Rõ ràng một sự phát triển chỉ nghiêng về việc thu lợi nhuận thì kết quả của nó luôn luôn song hành với sự tác hại, một sự tác hại lâu dài và rộng lớn cho cả cộng đồng xã hội; nhất là lớp thế hệ trẻ. Những người chủ tương lai của đất nước mà sống cuồng loạn thì cái giá phải trả cho sự phát triển đời sống vật chất theo cách đó thật là quá đắt.

Thiết nghĩ từ thời kỳ xa xưa, Đức Phật đã xây dựng được một thế giới văn minh thực sự hoàn hảo, với cách nuôi dạy từ trong thai sen, công dân nước Cực Lạc sinh ra là đã có thân tâm toàn thiện. Kế đến, được sống trong môi trường trong sạch hoàn toàn, nên tuổi thọ của người dân ở đó nhất định phải lâu dài, và quan trọng hơn nữa là được sinh hoạt với thầy bạn đều là những bậc thượng thiện nhân hoàn toàn tốt, giỏi, thì tri thức và đạo đức chắc chắn phải được thăng hoa tối đa. Vì vậy, có thể khẳng định rằng Cực Lạc là mô hình thế giới phát triển tuyệt vời nhất, ở đó chỉ có cuộc sống tốt đẹp, thánh thiện; mọi bóng dáng của nghèo đói, ngu dốt, sa đọa, tranh chấp, thù hận, khổ đau, tội ác, trộm cướp, giết chóc, chiến tranh … còn không có cái tên, chứ nói chi đến hiện diện. Vì thế, chư Phật mười phương đều khen ngợi công đức của Phật Di Đà và thế giới Cực Lạc.

Tóm lại, Phật giáo không hề tiêu cực; trái lại, theo dòng chảy miên viễn của tâm từ bi và trí tuệ từ nghìn xưa cho đến ngày nay và mãi đến nghìn sau, Phật giáo đã, đang và sẽ mãi mãi tích cực xây dựng một cộng đồng xã hội phát triển lành mạnh cho mọi người, xây dựng một cộng đồng thế giới hòa bình, hòa hợp, an vui cho tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc, xây dựng một ngôi nhà chung thân thương nối kết cuộc sống của loài người và muôn loài cùng cộng tồn, cùng phát triển theo hướng tốt đẹp nhất.

Tất cả mọi sự xung đột, thù hận, sát hại, tàn phá, chiến tranh đều được hóa giải bởi đôi tay tình thương, trái tim nhân ái và khối óc minh mẫn vì lợi ích của mọi người, mọi loài. Và từ đó, muôn người, muôn loài đều được hưởng thụ hợp lý mọi của cải do chính họ làm ra và tận hưởng một cách công bằng mọi của cải mà thiên nhiên đã hào phóng để đặt trên hành tinh này.

Xây dựng cuộc sống vật chất và tinh thần tốt đẹp cho mọi người, mọi loài, ở khắp mọi nơi trên quả địa cầu này luôn luôn là mục tiêu hướng đến trong mọi sinh hoạt của hành giả Phật giáo Đại thừa. Đó chính là mở cửa Cực Lạc tại chốn Ta bà, xây dựng thế giới Cực Lạc cho mọi người ngay tại cuộc sống nhân gian này.

(Suu tam tu: thuvienhoasen.org)