Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Sunday, July 19, 2009

Chấn hưng Giáo dục để nâng cao Năng lực cạnh tranh của Việt Nam

Chấn hưng Giáo dục để nâng cao Năng lực cạnh tranh của Việt Nam

ThS. Phạm Quốc Trung, Khoa QLCN. ĐHBK Tp.HCM

Đọc tựa đề, có lẽ mọi người sẽ cho rằng đây chỉ là ‎quan điểm chủ quan của tác giả nhằm nhấn mạnh vai trò của Giáo dục, chứ đâu thấy mối liên quan trực tiếp nào giữa Giáo dục và Năng lực cạnh tranh quốc gia. Nghĩ như thế là hoàn toàn sai lầm, vì nếu xem xét kỹ trong chỉ số về Năng lực cạnh tranh quốc gia, ta sẽ thấy trong đó có hai thành phần quan trọng là Giáo dục và KHKT. Vì vậy, đây là những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp lên năng lực cạnh tranh của mỗi nước. Đặc biệt, yếu tố cản trở nhiều nhất đến việc cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt Nam hiện nay theo thống kê chính là yếu tố Giáo dục.

Trước tiên, chúng ta hãy xem biểu đồ sau:

Đây là biểu đồ so sánh năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam và 1 số nước xung quanh. Bảng xếp hạng này được tham khảo từ Trung Tâm Nghiên cứu Kinh tế Nhật Bản (http://www.jcer.or.jp/ ), trong đó sắp hạng 50 nước được quan tâm nghiên cứu.

Trong bảng xếp hạng này, dễ dàng nhận thấy, gần 30 năm qua năng lực cạnh tranh của Việt Nam không hề có tiến bộ, chỉ dao động ở ngưỡng 48 hoặc 49. Nếu so sánh với một số nước xung quanh, thì chỉ có Ấn Độ là bạn đồng hành với Việt Nam ở thứ hạng này. Nước có tiến bộ vượt bậc về năng lực cạnh tranh phải kể đến Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc. Còn Singapore luôn ở thứ hạng rất cao trong bảng sắp hạng này, nên không nói tới ở đây. Nước có năng lực cạnh tranh đi xuống gồm có PhilippinesIndonesia.

Như vậy, nếu nhìn vào bảng xếp hạng này, ta thấy Việt Nam nếu muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thì nên học tập theo tấm gương của Malaysia và Thái Lan vì các nước này cùng trong khối Đông Nam Á và có hoàn cảnh, năng lực và quy mô gần giống với Việt Nam.

Nếu xét kỹ hơn về các thành phần của chỉ số Năng lực cạnh tranh này, ta sẽ thấy rõ hơn bức tranh phát triển của Việt Nam trong 30 năm qua theo nhiều khía cạnh, và từ đó tìm ra được điểm yếu nhất để tập trung khắc phục.

Hãy nhìn vào biểu đồ chi tiết sau:

Biểu đồ trên so sánh thứ hạng của các yếu tố trong Năng lực cạnh tranh của Việt Nam theo thời gian, từ 1980 đến nay. Các yếu tố chính này gồm có: Hợp tác quốc tế (Internationalization), Doanh nghiệp (Enterprises), Giáo dục (Education), Tài chính (Finance), Chính phủ (Government), KHKT (Science&Technology), Hạ tầng (Infrastructure) và CNTT (IT).

Dựa vào biểu đồ này, ta nhận thấy, Năng lực cạnh tranh chung của Việt Nam không thay đổi từ 1980 đến nay không phải do các yếu tố trên không thay đổi, mà bởi có những yếu tố phát triển đi lên, nhưng đồng thời cũng có những yếu tố tụt hậu đi xuống, khiến cho chỉ số chung không thể tăng như mong muốn.

Vậy yếu tố nào đã kéo Năng lực cạnh tranh của Việt Nam tụt lại? Nhìn vào biểu đồ, dễ dàng thấy ngay đó chính là yếu tố Giáo dục (từ thứ hạng 24 năm 1980 đã tụt xuống thứ hạng 46 năm 2008). Ngoài ra, KHKT của Việt Nam chưa bao giờ được đánh giá mạnh so với các nước (luôn đứng cuối bảng từ 1990 tới nay). Tuy nhiên, đây lại là hai yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến con người, đến đội ngũ lao động, kỹ sư, các nhà khoa học… từ đó ảnh hưởng đến các yếu tố khác của sự phát triển. Điều này lí giải tại sao, Việt Nam mặc dù có nhiều tiến bộ ở các lĩnh vực như: Hợp tác quốc tế, tăng số lượng và vai trò của các loại hình DN, cải cách tài chính, phát triển cơ sở hạ tầng, nhưng không nâng được chỉ số năng lực cạnh tranh chung.

Tại sao phải tập trung vào Giáo dục, thay vì các yếu tố khác cũng yếu kém, như: CNTT, Năng lực điều hành của Chính phủ, KHKT… Lí do chính là khi nhìn vào biểu đồ trên, ta thấy rằng tiềm lực về Giáo dục ở nước ta khá mạnh so với các lĩnh vực còn lại, vì ở những năm 1980, nước ta đã có thứ hạng khá cao về Giáo dục (hạng 24/50), trong khi đó CNTT, Chính phủ, KHKT đều nằm ở những thứ hạng thấp trong suốt gần 30 năm qua. Vì vậy, một khi được đầu tư xứng đáng, thay đổi tư duy quản lí lạc hậu, tạo điều kiện phù hợp cho sự sáng tạo và đổi mới phương pháp giáo dục… thì khả năng khôi phục lại vị trí xứng đáng của giáo dục Việt Nam là rất cao.

Từ phân tích trên, ta thấy rằng, để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế, việc tập trung đầu tư cho phát triển giáo dục, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và ứng dụng KHKT vào cuộc sống phải là ưu tiên hàng đầu, dùng nó làm đòn bẫy cho cả nỗ lực phát triển của xã hội.

Hơn nữa, xã hội loài người đang bước vào làn sóng thứ 3 của sự phát triển, làn sóng thứ 1 là thời đại Nông nghiệp, sự giàu có đặt trên việc sở hữu đất đai, làn sóng thứ 2 là thời đại Công nghiệp, sự thịnh vượng dựa trên sự sở hữu vốn tư bản, và làn sóng thứ 3 là thời đại Tri thức, sự thịnh vượng đặt trên việc sở hữu tri thức và khả năng sử dụng tri thức để tạo ra và cải tiến các sản phẩm và dịch vụ (theo Savage C., “Fifth Generation Management”). Chính vì vậy, ở thời đại này, quốc gia nào tạo được nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển giáo dục, thu hút nhiều nhân tài hơn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước thì sẽ có được vị thế cao trong cộng đồng quốc tế.

Ngày nay, nước ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước để theo kịp đà phát triển của thế giới, việc nâng cao vị thế đất nước để hội nhập với xu hướng phát triển chung của nhân loại trong nền kinh tế tri thức là một nhu cầu vô cùng cấp bách. Điều này, đòi hỏi những chính sách đúng đắn của chính phủ trong việc phát huy các điểm mạnh hiện tại, khắc phục những yếu kém, bất cập trong hai lĩnh vực Giáo dục và KHKT, tiếp tục phát triển hơn nữa hạ tầng cơ sở và IT để tạo thuận lợi cho các yếu tố khác phát triển.

Trong thời đại tri thức, hơn lúc nào hết, Việt Nam cần phải tạo được môi trường thuận lợi cho Giáo dục đào tạo và NCKH, để từ đó nâng cao trình độ giáo dục chung của toàn dân. Chính phủ và ngành giáo dục cần chú trọng vào việc tạo ra và đáp ứng đủ nhu cầu về đội ngũ kỹ sư, công nhân tri thức, khoa học gia có đủ chất lượng, có khả năng tiếp thu tri thức của thế giới, ứng dụng vào thực tiễn công việc, sáng tạo và đóng góp và kho tàng tri thức chung của nhân loại. Ngoài ra, các nhà làm chính sách phải tạo được chế độ sử dụng và đãi ngộ hợp lí với đội ngũ lao động tri thức, bất kể nguồn đào tạo, nhà nước phải thể hiện thực tâm giữ và thu hút người tài, dù ở ngoài nước hay trong nước, vào những dự án, chương trình lớn của quốc gia. Làm được như vậy, Việt Nam đã chuẩn bị cho mình những điều kiện rất tốt để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đồng thời đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển chung của thế giới trong thế kỷ 21.

Wednesday, July 15, 2009

Take time

TAKE TIME

Take time to work—It is the price of success.
Take time to think—It is the source of power.
Take time to play—It is the secret of perpetual youth.
Take time to read—It is the fountain of wisdom.
Take time to be friendly—It is the road to happiness.
Take time to love and to be loved—It is nourishment for the soul.
Take time to share—It is too short a life to be selfish.
Take time to laugh—It is the music of the heart.
Take time to dream—It is hitching your wagon to a star.

DÙNG THỜI GIAN

Dùng thời gian để làm việc - đó là cái giá cho sự thành công.
Dùng thời gian để suy nghĩ - đó là nguồn của sức mạnh.
Dùng thời gian để chơi - đó là bí quyết của sự trẻ mãi.
Dùng thời gian để đọc - đó là suối nguồn của trí tuệ.
Dùng thời gian để kết bạn - đó là con đường đến hạnh phúc.
Dùng thời gian để yêu và được yêu - đó là sự nuôi dưỡng tâm hồn.
Dùng thời gian để chia sẻ - vì cuộc đời quá ngắn đâu cần ích kỷ.
Dùng thời gian để cười - đó là âm nhạc của trái tim.
Dùng thời gian để mơ - sẽ không đủ thời gian để mà mơ mộng...

Bạn thường sử dụng thời gian của mình để làm gì ?

Saturday, July 4, 2009

Giá trị của niềm tin trong việc xây dựng xã hội VN ngày nay

Giá trị của niềm tin trong việc xây dựng xã hội VN ngày nay

Xã hội VN ngày nay có nhiều vấn đề cần phải giải quyết, nhiều vấn nạn cần phải khắc phục để đất nước có thể phát triển bền vững trong lộ trình đi lên và hòa nhập với thế giới. Vậy thì trong các vấn đề đó, đâu là vấn đề nghiêm trọng nhất cần phải tập trung cải thiện trong việc xây dựng đất nước hiện nay? Theo tôi, vấn đề quan trọng nhất đó là vấn đề khủng hoảng niềm tin.

Tại sao tôi lại cho là việc thiếu niềm tin là vấn đề nghiêm trọng nhất? Bởi nhìn vào xã hội ngày nay, ta thấy rất nhiều lo lắng, bất an, sợ hãi, nghi kỵ, ngờ vực, đề phòng… Mà tất cả những điều đó đều là biểu hiện của 1 nguyên nhân chung, đó là thiếu niềm tin lẫn nhau, thiếu niềm tin vào một giá trị đạo đức vĩnh hằng. Xin các bạn đừng nghĩ tôi muốn nói đến niềm tin tôn giáo ở đây, đơn giản chỉ là niềm tin vào con người, niềm tin vào một lí tưởng cao đẹp mà thôi.

Trước tiên, niềm tin là sự tin tưởng vào một ai đó, một việc gì đó, và cho rằng ai đó, việc gì đó là đúng bất chấp những lung lạc bên ngoài. Như vậy, khi nói đến niềm tin, chúng ta thấy có 2 đối tượng: người tin, và đối tượng được tin, nếu đối tượng được tin là con người thì đó phải là niềm tin 2 chiều, khi A tin B và B cũng tin A thì giá trị niềm tin mới được thiết lập.

Nhìn trong gia đình, nếu vợ chồng tin tưởng nhau, anh em tin tưởng nhau, cha con tin tưởng nhau… thì gia đình đó êm ấm biết mấy, hạnh phúc biết mấy. Rộng ra ngoài xã hội, nếu người chủ - người lao động tin tưởng nhau, xóm giềng tin tưởng nhau, nhà nước – nhân dân tin tưởng nhau thì xã hội thái bình, ai nấy cũng yên tâm làm việc, không còn những nghi ngờ, sợ hãi, lo lắng nữa.

Khi ta đã tin vào ai đó hay điều gì đó thì rất khó ai có thể thay đổi niềm tin này. Vì vậy điều quan trọng là cần phải đặt niềm tin đúng người và đúng chỗ. Niềm tin nếu đặt đúng đối tượng có thể là động lực để chúng ta hành động và vượt qua nhiều khó khăn trở ngại. Tuy nhiên, nếu niềm tin đặt sai chỗ, có thể khiến chúng ta trở nên mù quáng và hành động sai lầm hoặc suy sụp một khi nhận ra mình đã tin tưởng không đúng. Lịch sử đã từng chứng minh điều này, chẳng hạn: trong cuộc kháng chiến chống Mông Cổ dưới thời nhà Trần, nhờ tin tưởng vào tài lãnh đạo quân sự của Trần Hưng Đạo và sức mạnh kháng chiến của toàn dân, mà quân dân Đại Việt đã 3 lần đánh thắng đội quân hung hãn Nguyên Mông lúc bấy giờ; ngược lại, trong thời cận đại, triều đình nhà Nguyễn đã không tin vào khả năng chiến đấu của dân chúng, không tin rằng nước mình vào thời điểm đó đã quá lạc hậu về KHKT cũng như quân sự, cần phải thay đổi, học tập, phát triển, nên đã dẫn đến hậu quả là 100 năm Pháp thuộc.

Biết rằng niềm tin là vô cùng quan trọng để tạo nên sức mạnh thần kỳ, phi thường, điều này rất cần thiết trong giai đoạn đất nước đang chuyển mình như hiện nay. Nhưng điều khó khăn nhất đó là làm sao để thiết lập niềm tin của xã hội? Làm sao biết nên tin vào ai hay vào điều gì trong cái xã hội đảo điên, nhiều dối trá, lừa lọc này?

Vấn đề này đòi hỏi một nỗ lực mạnh mẽ và lâu dài của cả xã hội, nhưng việc dù khó mấy, nếu quyết tâm thì cũng có thể thực hiện được, chỉ cần có phương pháp đúng đắn. Giải pháp có vẻ cũng rất đơn giản, đó là đặt mọi giá trị trên nền tảng của Sự Thật, những giá trị đạo đức chung nhất phải được khôi phục, xây dựng, đề cao những tấm gương đạo đức trong xã hội. Cụ thể là: phải tôn trọng sự thật, mọi việc phải có luật lệ rõ ràng cụ thể, nhìn vào đó có thể dễ dàng phân biệt đúng sai, thật giả; dùng thật tâm để giải quyết công việc, không dối trá, quanh co, trách nhiệm và quyền lợi phải đi đôi, khi phát hiện giả dối phải nghiêm phạt; đề cao phẩm chất đạo đức, và những con người biết tôn trọng các giá trị và phẩm chất chung ấy, phát huy vai trò của các tổ chức dân sự, tôn giáo, phi chính phủ trong việc nêu cao tấm gương đạo đức, vì luật pháp chỉ ngăn được cái xấu ở bên ngoài, còn ‎niềm tin vào đạo đức có thể ngăn được cái ác bên trong mỗi con người.

Để làm được việc này, trước tiên đòi hỏi quyết tâm của toàn xã hội, kế đến là việc cụ thể hóa quyết tâm này bằng những chính sách, quy định của nhà nước và cuối cùng là những con người cụ thể, những nhà lãnh đạo có tài có đức, những công dân ở đủ mọi tầng lớp, ngành nghề… là những tấm gương sáng cho cả xã hội noi theo.

Xã hội vững, bởi càng tin cậy

Muốn tin nhau, phải lấy thực tâm

Lời ngay, tin tưởng nảy mầm

Đồng lòng, đồng sức, ngàn năm thái bình…

Vì vậy, để khắc phục những vấn nạn của xã hôi trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay, đòi hỏi một quyết tâm to lớn nhằm khôi phục lại niềm tin giữa mọi người trong xã hội, niềm tin vào 1 lí tưởng cao đẹp và tương lai tươi sáng của đất nước. Niềm tin đó phải được đặt trên cơ sở đề cao sự thật, lời nói và việc làm phải thực tâm và trân trọng các giá trị đạo đức cao đẹp trong xã hội.

Trước khi kết thúc bài viết, xin mời các bạn hãy cùng tôi đọc 1 bài thơ với tựa đề “Sáng một niềm tin” và mong rằng đất nước VN sẽ mau chóng cất cánh khi giá trị niềm tin được khôi phục trong lòng mỗi con người.

Sáng Một Niềm Tin


Giữa bể khổ trần gian

Giữa gian trá muôn vàn

Niềm tin luôn tỏa sáng

Sưởi ấm cõi mênh mang

*

Niềm tin vào lẽ phải

Vào chân lý không hai

Thiện phải luôn thắng ác

Niềm tin đó không lay

*

Dẫu muôn ngàn gian khổ

Dầu gian hiểm rình vồ

Chẳng làm sao lay chuyển

Niềm tin giữa hư vô

*

Niềm tin còn sáng mãi

Vượt qua nỗi đau dài

Thời gian như đọng lại

Nở bừng trong sớm mai.