Kẻ ngu hay cãi
Một thuở nọ, đức Phật đang ở trong vườn Kỳ-Thọ Cấp-Cô-Ðộc, thành Xá-Vệ, giảng pháp cho đồ đệ nghe. Thính chúng trong pháp hội nầy gồm hàng tại gia, xuất gia đủ cả tứ chúng, và vua quan, đại thần, tể tướng, bá quan, vạn dân, hơn tám vạn người.
Gần đến giờ ngọ, các thầy tỳ-kheo phân thành
từng đoàn bưng bình bát vào thành Xá-Vệ khất thực. Trên đường đi vào thành,
trời còn sớm, chưa đến giờ ngọ, các thầy tỳ-kheo mới bàn với nhau rằng:
"Trời hãy còn sớm, nếu chúng ta vào thành khất thực e rằng các tín chủ
chưa chuẩn bị kịp thức ăn cúng dường. Tốt hơn, để tránh sự phiền lòng vội vã
của người tín chủ có thể khởi tâm không được hoan hỷ trọn vẹn, thì chi bằng
chúng ta cùng nhau tạm thời đi vào giáo đường của đạo Bà-la-môn nghỉ chân một
lát, đồng thời cũng để nghe họ giảng đạo ra sao, rồi sau đó đi vào thành khất
thực thì có lẽ hợp thời hơn".
Nghe vậy, đa số đều đồng ý kéo nhau vào giáo
đường Bà-la-môn. Các thầy tỳ-kheo lễ phép chào hỏi xong, mỗi người kiếm chỗ
ngồi nghe theo các đạo trưởng Bà-la-môn và đồ chúng của họ luận đạo. Các thầy
Bà-la-môn bàn cãi đạo lý với nhau, ai cũng tranh phần đúng, ai cũng nói mình có
lý, ai cũng nói ý kiến của mình là hợp với chân lý hơn, đáng để thực hành. Các
thầy Bà-la-môn luận cãi nhau mỗi lúc một sôi nổi không còn giữ được thái độ
bình tĩnh nữa, đưa đến những lời thề thốt văng tục, và tiếp theo đó là chân tay
gậy gộc, cuối cùng trận đấu khẩu luận đạo của họ biến thành trận ẩu đả hỗn
loạn.
Các thầy tỳ-kheo thấy vậy cùng nhau đứng dậy
lặng lẽ bỏ đi để vào thành khất thực. Ðến giờ ngọ, các thầy tỳ-kheo đều trở về
tịnh xá thọ trai.
Sau khi thọ trai xong, tăng chúng vây quanh
Phật và đem những việc đã nghe thấy ở giáo đường Bà-la-môn vừa rồi, bạch lên
đức Phật: "Bạch đức Thế-Tôn! Những người đạo Bà-la-môn họ vì tìm chân lý
mà biện luận tranh cãi nặng lời, đến nỗi dùng tới dao gậy đả thương nhau. Như
thế thì chừng nào họ mới đạt được chân lý? Cúi xin đức Thế-Tôn từ bi chỉ dạy để
cho chúng con được rõ".
Ðức Phật mỉm cười hiền hòa đáp: "Nầy các
con! Tất cả đều do si mê mà ra. Không phải các
người Bà-la-môn kia chỉ ngu dốt sân hận ở một đời nầy đâu! Mà ta nhớ từ thuở
quá khứ xa xưa, trong một kiếp nọ, cũng ở cõi Ta-bà nầy, có một nhà vua sùng
tín đạo Phật. Ngày ngày ngoài việc triều chính ra, nhà vua còn chuyên cần
nghiên cứu thông hiểu nghĩa lý kinh Phật, thực hành lời Phật dạy. Trái lại đình
thần dân chúng trong nước không nhiệt tâm hâm mộ Phật Pháp, không thông hiểu
đạo lý của chư Phật. Xem một vài trang kinh sách Phật, rồi họ tưởng là đủ thông
hiểu lời chư Phật dạy. Họ tỏ ra khinh mạn tự cao tự mãn. Vì vậy, tâm trí hiểu
biết của họ đối với giáo nghĩa của chư Phật chẳng khác nào như bọt nước trong
biển cả, như ngôi sao đối với ánh trăng, như miệng chum đối với quãng trời bao
la cao rộng, như ếch ngồi đáy giếng, như hồ ao nhỏ bé đối với đại dương. Lại có
lắm kẻ còn tin theo giáo thuyết tà ma ngoại đạo. Ðể cho quần thần dân chúng
tỉnh ngộ, hâm mộ nghiên cứu giáo lý Phật-Ðà, nhà vua truyền lệnh tìm hết những
người mù trong nước từ thuở còn lọt lòng, tập trung lại tại một nơi trong hoàng
cung.
Sau hơn ba tháng trời, những người mù khắp
nơi trong nước, được đưa về triều. Nhà vua lại truyền lệnh các quan trong triều
và dân chúng cả nước phải tụ tập ở quảng trường trước cửa ngọ môn hoàng thành
để chứng kiến cảnh thí nghiệm hy hữu. Ðồng thời nhà vua cũng ra lệnh cho quan
quản tượng dắt voi ra để cho những người mù rờ và cho họ tự do phát biểu ý kiến
theo sự hiểu biết của họ. Còn nhà vua thì đích thân chủ tọa cuộc thí nghiệm
nầy.
Những người mù được dắt đến vây quanh, để họ
tùy thích rờ mó voi một hồi lâu, rồi xem họ phát biểu sự hiểu biết của mình.
Người rờ trúng chân voi, thì nói voi giống như cái cột nhà. Kẻ rờ trúng vành lỗ
tai, thì nói voi như cái quạt. Người rờ trúng đuôi, thì nói voi giống như cái
chổi. Kẻ rờ trúng bụng voi, thì nói voi giống như trống chầu. Kẻ rờ trúng hông
voi, thì nói voi giống như bức tường. Người rờ trúng lưng voi, thì nói voi như
mặt bàn. Kẻ rờ trúng ngà voi, thì nói voi giống như cái kèn. Rồi cả bọn họ cãi
nhau ôn ào để tranh phần đúng về mình. Thấy bọn mù tranh cãi về sự hiểu
biết của mình đối với voi, mỗi lúc một ồn náo. Không ai chịu thua ai, họ quờ
quạng muốn đánh nhau. Thấy cảnh tượng như vậy, không nén được lòng, nhà vua bật
cười to ha hả và phán với thần dân rằng: "Các quan văn võ triều thần và
dân chúng cả nước đối với Phật Pháp hiểu biết chẳng khác nào như những kẻ mù
kia hiểu biết về con voi". Rồi nhà vua ngâm lớn kệ rằng:
Thần dân cả nước khác chi
mù
Phật Pháp hiển bày cứ vẫn ngu
Chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng nghiên cứu
Phật Pháp hiển bày cứ vẫn ngu
Chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng nghiên cứu
Ngông nghênh khoe mép, tưởng đặc thù.
Ngâm xong bài kệ, nhà vua hướng về thần dân
giảng nói lớn rằng: "Ở đời có những kẻ chỉ mới học năm ba quyển sách, hiểu
biết nông cạn như vài bụm cát trong bãi biển mà cứ tưởng mình thâm hiểu kinh
điển diệu lý cao siêu, rồi vênh váo tự đắc, khua môi múa mép, tự cho ta đây là
hơn cả. Những kẻ đó chẳng khác nào những kẻ mù rờ voi kia vậy".
Ðức Phật thuật câu chuyện xong, Ngài hướng về
đại chúng mà nói rằng: "Những người Bà-la-môn tranh cãi trong giáo đường
mà các con vừa thấy đó, tiền kiếp của họ chính là bọn người mù rờ voi ở thời
quá khứ. Họ ngu dốt không chịu tìm minh sư học đạo, không chịu thân gần
thiện-tri-thức để học hỏi kinh điển, nghiên tầm nghĩa lý, chuyên tâm tu niệm,
mà cứ tranh cãi hơn thua, nên mãi đắm chìm trong ngu dốt. Còn vị vua ở thời quá
khứ đó, chính là tiền thân của Như-Lai ta đây vậy".
Bài học: Trong cuộc sống, cần biết tu tập để
phát triển trí tuệ, nhìn được sự thật. Người tu cần
tránh cố chấp vào cái biết của mình, mà cần khiêm tốn, biết lắng nghe, để học
hỏi. Câu chuyện người mù sờ voi là một bài học rất hay, giúp ta tránh rơi vào
tranh cãi, hý luận vô ích, dựa trên sự hiểu biết hạn hẹp, và sự cố chấp của
mình. Nếu những người mù đừng tranh cãi, biết cùng nhau thảo luận, chia sẻ cái
biết của mình, thì họ sẽ khám phá ra con voi thực sự rất khác với những gì họ
đang nghĩ.
(Trich: Nhung mau chuyen PG danh cho thieu nhi - tap 3 - Duc Kien)