Mother, the folk who live up in the clouds call out to me “We play from the time we wake till the day ends. We play with the golden down, we play with the silver moon”. I
ask, “But, how am I to get up to you?” They answer, “Come to the edge
of the earth, lift up your hands to the sky, and you will be taken up
into the clouds”. “My mother is waiting for me at home”, I say, “how can I leave her and come?” Then they smile and float away.
But I know a nicer game than that, mother I shall be the cloud and you the moon. I shall cover you with both my hands, and our house-top will be the blue sky.
The folk who live in the waves call out to me “We sing from morning till night; on and on we travel and know not where we pass.” I
ask, “But, how am I to j oin you?” They tell me,”Come to the edge of
the shore and stand with your eyes tight shut, and you will be carried
out upon the waves.”
I say, “My mother always wants me at home in the evening …how can I leave her and go?” Then they smile, dance and pass by.
But I know a better game than that. I will be the waves and you will be strange shore. I shall roll on and on, and on, and break upon your lap with laughter. And no one in the world will know where we both are.
Bản dịch - Mây và sóng
Thơ Tagore - Trong tập thơ Trăng Lưỡi Liềm (The Crescent Moon,năm 1913) Tặng em và các con
Mẹ ơi ! Kìa ai đang gọi con trên mây, Chúng ta vui chơi đến hết ngày, Dưới ánh trăng vàng, trên sóng bạc, Nhưng làm sao tôi đến được đây ?
Họ trả lời con : “Hãy đi ngay, Cuối nẻo đất, trời mây đang gọi” Nhưng con nói : “Mẹ tôi đang đợi, Tôi thể nào, bỏ được mẹ sao ?”
Họ mỉm cười và lao đi mất, Nhưng con còn biết một trò hay : Mẹ làm trăng, con sẽ làm mây, Con sẽ ôm choàng mẹ với bàn tay, Còn mái nhà ta là trời xanh bát ngát
Mẹ ơi ! Kìa ai đang gọi con trên sóng rì rào, “Ta ca hát sớm chiều và đi xa mãi mãi, Không biết rằng sẽ đi qua nơi đâu”.
“Nhưng làm sao cho tôi đến được?” “Con hãy mau ra mặt biển đi, Nhắm mắt vào và sóng cuốn con đi” . Lời mẹ dặn hằng đêm tôi đang nhớ “Lòng con sao rời mẹ cho đành?”
Họ mỉm cười và dần đi khuất, Nhưng con còn biết một trò chơi, Con làm sóng, mẹ, mặt biển khơi, Con lăn mãi, vui cười bên gối mẹ,
Và không ai có mặt trên đời, Lại biết được khoảng trời mẹ con ta đang sống !
Bài kinh Bát nhã được xem là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo. Chính vì vậy nó thường được gọi là tâm kinh, hay kinh nằm lòng, và được đọc tụng trong hầu hết các khoá lễ hằng ngày và các nghi lễ quan trọng của đạo Phật Việt Nam.
Ai trong chúng ta nếu đã từng nghe qua bài kinh này đều thường nhớ được những đoạn điệp khúc khá ấn tượng : "Xá lợi tử ơi, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc ...", hay "...tướng không của các pháp không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt...". Đọc xuông thì dễ, nhưng hiểu được ý nghĩa của nó đòi hỏi chúng ta phải suy tư và thực hành kỹ lưỡng. Hiểu được ý nghĩa của tâm kinh cũng tức là hiểu được tinh ba giáo lý của Phật. Dưới đây tôi xin chia sẻ đôi điều suy nghĩ của cá nhân về những câu kinh trên. Hy vọng những suy nghĩ này phù hợp với giáo nghĩa của chư Phật và giúp ích chút đỉnh cho những ai hữu duyên, và muốn hiểu thêm về Bát nhã tâm kinh.
Trước hết, có lẽ tôi đặc biệt lưu tâm đến các đoạn trên của Bát nhã tâm kinh khi học đến định luật bảo toàn năng lượng trong chương trình vật lý bậc phổ thông. Khi đọc thuộc lòng đoạn "năng lượng không mất đi mà cũng không tự sinh ta, nó chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác, hoặc truyền từ vật này sang vật khác", tự nhiên tôi cảm thấy có sự tương đồng rất lớn giữa định luật này và những câu kinh Bát nhã ở trên.
Phải chăng "tướng không của các pháp" trong đoạn kinh trên là tên gọi khác của năng lượng? Nếu nhìn bằng con mắt của vật lý học, vạn vật trong thế giới này đều gồm 2 phần là : vật chất hữu hình và năng lượng vô hình. Khi chưa khám phá ra thuyết tương đối, con người cho rằng vật chất và năng lượng là khác nhau và tách rời nhau. Nhưng dưới ánh sáng của thuyết tương đối, chúng ta biết rằng năng lượng và vật chất là 2 mặt biểu hiện của cùng 1 sự vật. Với công thức E=Mc^2, Einstein đã chứng minh mối quan hệ giữa vật chất và năng lượng một cách hùng hồn. Phần hữu hình của vạn vật được biểu diễn bằng khối lượng M trong công thức trên, còn phần vô hình hay tướng không của vạn pháp được biểu diễn bởi năng lượng E trong công thức trên. Nói cách khác, công thức trên chính là diễn tả ý nghĩa "sắc tức thị không" trong câu kinh Bát nhã. Sắc chính là phần vật chất hữu hình, còn không chính là phần năng lượng vô hình của vạn pháp. Đó chính là 2 mặt của cùng sự vật, hiện tượng. Vật chất khi tích tụ năng lượng thì hữu hình, khi giải phóng năng lượng thì trở thành vô hình. Nó không mất đi, vẫn còn đó, đợi nhân duyên đầy đủ lại biểu hiện dưới dạng vật chất trở lại. Và nếu đọc lại định luật bảo toàn năng lượng thì nó hoàn toàn trùng khớp với đoạn "thị chư pháp không tướng bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm..." trong tâm kinh. Ôi quả thật là chân lý! Điều mà đến nay các nhà khoa học mới thấy, thì cách nay 2500 năm Đức Phật đã phát biểu một cách rõ ràng như vậy. Ngài quả là một nhà khoa học vĩ đại!
Như vậy, điều Phật nói rất tương đồng với những gì mà khoa học hiện đại phát hiện được. Đó phải chăng là lý do mà nhà vật lý học nổi tiếng của TK 20 Einstein đã hết lời ca ngợi Phật giáo. Ông đã xem Phật giáo như tôn giáo của khoa học. Bát nhã tâm kinh vì vậy xứng đáng được gọi là bài kinh của trí tuệ, bởi nó giúp chúng ta thấy được chân lý như thật về vũ trụ vạn pháp.
Kinh Bát nhã còn viết "Quán tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách". Nếu thực hành thâm sâu trí tuệ đáo bỉ ngạn này, sẽ soi thấy 5 uẩn cấu tạo nên thân tâm của chúng ta (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều là không, nhờ đó mà vượt qua hết mọi khổ đau, ách nạn. Tại sao chúng ta ngày nào cũng đọc Bát nhã mà khổ đau vẫn còn nhiều, ách nạn vẫn ngập tràn, vẫn chưa thể vượt qua để đến bờ an vui? Có lẽ lý do chính là chúng ta mới đọc trên miệng mà chưa thực hành thâm sâu bài kinh này. Như vậy làm sao để "hành thâm Bát nhã" đây?
Đây chính là quá trình tu học của mỗi người trong cuộc sống, bởi từ hiểu đến hành là một khoảng cách. Phật dạy pháp của ngài như là thuốc chữa lành bệnh khổ của chúng sanh, nhưng nếu chỉ cầm thuốc trong tay mà không uống thì không hết bệnh được. Cũng vậy, nếu chúng ta hiểu Bát nhã, mà không thực hành thì cũng không thể vượt thoát khổ đau, đến bờ hạnh phúc được. Thực hành Bát nhã đòi hỏi chúng ta hiểu được tánh không và tướng không của vạn pháp trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Khi đối diện với khổ đau, cần quán chiếu bản chất sâu xa của khổ: khổ từ đâu mà có? Ai khổ? Nếu thấy rõ "sắc tức thị không" thì sẽ thấy người đang đau khổ cũng là không, mà cái tâm niệm khổ đau cũng không nốt. Người chịu khổ đã không thì nổi khổ cũng không, vậy là vượt qua mọi khổ ách rồi còn gì. Bởi thấy được tính vô ngã của vạn pháp, nên ngay đó không còn sợ hãi, khổ đau nữa.
Sở dĩ con người thấy khổ là chắc thực và triền miên là bởi không thấy được cái tôi là giả tạm, hư dối. Họ cho rằng thân ta là chắc thật, tâm ta là thường còn, mà không biết lẽ vô thường. Cần nhìn thấy mọi thứ là do duyên sinh, và cũng do duyên mà tan biến. Sắc và không là 2 mặt của một đồng tiền, nhìn sắc phải thấy không, nhìn không cần biết sắc. Nếu thấy được như vậy thì không đau khổ khi đối diện với sống chết, không còn sợ hãi nữa. Bởi sống và chết là 2 mặt biểu hiện của cùng thực tại, chết không phải là mất, bởi năng lượng không sinh ra cũng không mất đi, nó chỉ tạm ẩn để chờ đợi nhân duyên và biểu hiện ở một dạng khác mà thôi. Nếu luôn duy trì được cái thấy như vậy về vô ngã, vô thường, duyên sinh của vạn pháp trong cuộc sống, tức là đã có thể hành thâm bát nhã, đã có đức tính của ngài Quán tự tại Bồ tát, và có thể thong dong dạo chơi trong cõi ta bà rồi vậy.
Hy vọng, mỗi chúng ta hãy học và hành Bát nhã tâm kinh bằng tinh thần của nhà khoa học vật lý. Để hiểu được ý nghĩa sâu xa của câu kinh "Sắc tức thị không" trong bài kinh trí tuệ đáo bỉ ngạn, và áp dụng nó một cách thường xuyên khi đối diện với mọi hoàn cảnh trong cuộc đời, để có thể vượt thoát khổ ách, nếm được hương thơm của đóa hoa giải thoát, giác ngộ ngay trong đời sống hiện tại. Nào, hãy cùng tôi tụng đọc tâm kinh Bát nhã mỗi ngày bạn nhé!
Vua A Xà Thế sau
khi quy y theo Phật đã rất nhiệt tâm trong việc tu học, thường suy tư, tìm hiểu
và ứng dụng lời Phật dạy vào việc trị quốc, an dân. Vì vậy, đất nước an bình,
thịnh trị.Tuy nhiên, việc vua
A Xà Thế theo Phật, thay đổi quan điểm trong việc trị quốc theo hướng nhân từ, không sát hại đã gặp phải sự bài bác,
chống đối của các vị Bà La Môn.
Nhân sự việc 2 binh
sĩ bỏ nhiệm vụ để trở thành tỳ kheo trong tăng đoàn của Phật, các vị Bà La Môn
chất vấn vua A Xà Thế rằng, nếu ai cũng muốn thực hiện theo lời Phật dạy là
không sát hại thì lấy ai chiến đấu bảo vệ đất nước và giữ gìn trị an?
Vua A Xà Thế bối
rối trước tình huống này, nên đến xin ý kiến Phật để tìm cách hóa giải mâu thuẫn với các vị Bà La Môn, và cũng để giải quyết những khúc mắc trong lòng mình.Sau khi nghe những
khúc mắc của vua A Xà Thế về mâu thuẫn giữa nguyên lý bất hại với nhu cầu chiến
đấu, trừng phạt để bảo vệ sự an nguy của đất nước, Đức Phật bèn kể một câu chuyện như sau.
Ngày xưa, ở một
vương quốc nọ, có một con rắn chúa sinh sống trong ngôi đền cổ. Con rắn này
thường bò vào làng và cắn chết nhiều người, nên nó đã trở thành nổi kinh hoàng
của mọi người. Không ai dám đến gần ngôi
đền và khu vực xung quanh.
Một hôm nọ, có vị
đạo sĩ từ phương xa đến và dừng chân trú đêm lại trong
ngôi đền đó. Con rắn chúa đã bò đến gần vị đạo sĩ, và định cắn như mọi khi. Tuy
nhiên, vị đạo sĩ là người đã có giác ngộ, nên
ngài đã dùng tâm từ để cảm hoá con rắn chúa. Ngài đã giảng giải cho nó nghe về nghiệp báo, khiến nó nhận ra
lỗi lầm do lòng tham sân si. Nó đã xin quy y với ngài, hứa giữ gìn ngũ giới và
nguyện sẽ từ bỏ con đường sát
hại.
Từ đó, con rắn trở
nên hiền lành, không còn cắn ai nữa. Tuy thế, dần dần mọi người trong làng
không còn sợ hãi con rắn, và còn xem
thường nó nữa. Chẳng những vậy, nó lại bị lũ trẻ con trong làng chọc phá, dùng gậy
gộc đánh một cách rất thảm thương. Con rắn phải trốn vào hang đá vào ban ngày,
và ban đêm mới đi ra kiếm ăn. Nó chỉ ăn những thứ cỏ cây, sỏi đá mà không dám
giết hại bất kỳ loài vật nào như đã hứa với vị đạo sĩ.
Một ngày kia, vị
đạo sĩ trở lại ngôi làng đó, thấy tình cảnh thảm thương của con rắn, ngài nói
với nó: "Ta chỉ bảo ngươi không cắn người, chứ đâu bảo ngươi phải từ bỏ
bản chất của mình. Ngươi vẫn có thể khò khè làm họ sợ để tự vệ chứ".
Kể đến đây, Đức
Phật dạy vua A Xà Thế về trách nhiệm của người cầm quyền, nên dùng tâm nhân từ,
công bằng đối xử với mọi người. Khi cần thiết vẫn có
thể trừng phạt người phạm lỗi, và vẫn có thể duy trì quân đội để bảo vệ đất
nước.
Ngài dạy thêm, điều quan trọng của việc tu tập là đi trên con đường
trung đạo, không quá phóng túng, nhưng cũng không
quá khắc khổ, cần linh động để ứng xử cho phù hợp với hoàn cảnh, tránh việc cố
chấp, quá cứng nhắc trong ứng xử.
Ngoài ra, Đức Phật
cũng chỉ cho vua A Xà Thế về bảy
nguyên tắc để duy trì hòa bình, giải quyết mâu
thuẫn, tranh chấp phát sinh, đó là:
1/ hai bên cần ngồi
đối diện với nhau, cùng nổ lực giải quyết vấn đề.
2/ mỗi bên trình
bày vấn đề một cách rõ ràng, bình tĩnh tìm hiểu và ghi nhớ nguyên nhân của vấn
đề.
3/ cần dùng trí tuệ
khách quan/ công bằng xem xét từng vấn đề, sáng tạo trong việc tìm giải pháp.
4/ nếu nhận thấy
điểm sai của mình thì chủ động xin lỗi, không cố chấp cãi bướng. Sẵn lòng tha
thứ cho người và cho mình về những khuyết điểm.
5/ mọi quyết sách
cần được sự tán đồng của người dân, nếu sau khi đọc lớn 3 lần quyết định trước
công chúng mà không ai phản đối, thì mới được ban hành quyết định đó.
6/ trong quá trình
giải quyết mâu thuẫn, các bên cần phải tuân theo quy tắc chung đã đặt ra.
7/ cần mời một
người lớn tuổi, có uy tín đứng ra làm trọng tài/ trung gian hoà giải giữa 2
bên.
Phật nói tiếp, nếu đại vương thực hành theo bảy nguyên tắc trên, mọi tranh chấp sẽ có thể được hóa giải, mở ra con
đường của hoà bình, an lạc và cùng chung sống giữa mọi người.Nghe xong, vua A Xà
Thế vui mừng, tán thán Đức Phật, xin tuân theo lời chỉ dạy và trở về cung.
Bài học: Khi áp dụng lời Phật dạy vào cuộc
sống, cần linh động, nên theo tinh thần trung đạo. Nguyên lý bất hại chỉ mang
tính tương đối, nên cố gắng tránh sát hại đến mức tối đa. Trong một số tình
huống bất khả kháng, việc trừng phạt, hay tiêu diệt kẻ ác để bảo vệ an bình của
người thiện một cách công tâm cũng không vi phạm nguyên lý này.
(Nguồn: Những mẩu chuyện Phật giáo dành cho thiếu nhi - tập 3)
Tám mươi mùa xuân đã
qua từ ngày Phật xuất thế dưới cây Vô ưu. Bấy giờ Ngài vào hạ ở rừng Sa-la
trong xứ Câu-ly cách thành Ba-la-nại chừng 120 dặm. Một hôm, Ngài bảo ông
A-nan:
– A-nan ơi! Ðạo ta nay đã toàn
vẹn. Như xưa ta đã nguyện, nay ta đã đủ bốn chúng trong tăng đoàn, là: tăng,
ni, phật tử nam, phật tử nữ và nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe Pháp. Còn
trong dân gian, Ðạo ta truyền khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các người mà ra
đi. Vả lại, nay ta cũng đã 80 tuổi rồi. Thân hình ta bây giờ như một cỗ xe đã
mòn rã, nếu còn đi được là nhờ những sợi dây ràng rịt các bộ phận với nhau. Ta
sẽ mở dây cho chúng tan rã. Thân này ta đã mượn làm xe để chở Pháp, nay xe cũng
vừa mòn mà Pháp cũng đã lan khắp, ta còn nấn ná làm gì trong cái thân tiều tụy
này nữa? A-nan, trong ba tháng nữa, ta sẽ nhập Nỉết-bàn.
Nghe Phật dạy, ông
A-nan gieo năm vóc xuống đất, bạch:
– Thưa Thế Tôn, Ngài
thường dạy rằng ai đã giác ngộ thì không thể mất đi được. Nay Thế Tôn là một bậc
toàn trí, toàn năng, sao lại còn phải chịu cái luật tầm thường như thế?
Phật nghiêm nét mặt
lại hỏi:
– A-nan! Người
bảo cái gì mất mà cái gì còn ? Sao người không nhận được cái gì chơn mà cái gì
giả, cái gì tồn tại mà cái gì tiêu hủy? Ta đã nhiều lần dạy rằng, đã có đến thì
có đi, có hợp thì có tan, có sanh thì có diệt. A-nan, thân ta không khác thân
mọi người; mà thân mọi người làm sao thoát ra ngoài luật vô thường được? Thân
ta là giả hợp, nó phải tan rã. Nhưng A-nan! Làm sao ngươi thấy
một làn sóng tan, ngươi lại bảo nước không còn nữa?
Ông A-nan cũng biết
như thế lắm. Nhưng ý nghĩ trong ba tháng nữa, Phật sẽ không còn tại thế để chỉ
dạy cho chúng sanh, làm ông bồn chồn tâm trí. Ông đánh bạo nài xin Phật ở lại
một lần nữa:
– Bạch Thế Tôn, xin
Ngài hãy ở nán lại vì rất nhiều đệ tử còn phải nhờ đến sự chỉ giáo của Thế Tôn
để chứng đạo.
– A-nan ơi! Chính vì
muốn để cho họ mau chứng đạo mà ta nên đi. Nếu chim mẹ cứ mớm mồi mãi cho con,
thì đến bao giờ chim con mới bay được? Gần nửa thế kỷ, họ quanh quẩn bên chân
ta, bây giờ phải đến lúc họ rời ta để tự bước tới, như đứa trẻ mới tập đi, phải
có một lúc rời tay mẹ.
Tin Phật sắp vào
Niết-bàn lan dần như một hơi gió thoát từ hang lạnh. Các đệ tử như đàn cừu tản
mác trên cánh đồng Ấn Ðộ, lục tục kéo nhau về để cùng đấng Dẫn Ðường chia ly
lần cuối.
Trong mấy tháng ấy
tuy thân hình Ngài đã gầy còm, mệt mỏi, Phật vẫn đi truyền giáo như thường.
Nhưng Ngài không đi xa, chỉ quanh quẩn trong địa hạt xứ Câu-ly. Ông A-nan
thường xin Ngài hãy tịnh dưỡng trong những ngày cuối cùng của Ngài. Nhưng Ngài
khoát tay từ chối, mà dạy:
– Thân ta tuy có kém
khoẻ, nhưng lòng Từ bi của ta, Trí sáng suốt của ta có kém sút đâu? Ta còn tại
thế ngày nào thì ngày ấy phải là ngày không vô ích.
Một hôm, Phật đi
thuyết pháp ngang một khu rừng, có một người tên là Thuần-đà, làm nghề đốt than
đến quỳ trước Phật:
– Kính lạy Ngài, ở
đây làng mạc không có, mà trời sắp đứng trưa, xin Ngài hãy về nhà con ở gần đây
thọ trai rồi hãy đi. Con nghe Ngài qua đây nên đã đi hái một thứ nấm rất quý để
dâng Ngài, xin Ngài đừng từ chối mà tủi nhục lòng con.
Phật im lặng cùng các
đệ tử đi theo ông Thuần-đà. Ðến nhà, những thức ngon vị lạ đã dọn la liệt trên
bàn dài, ông Thuần-đà lại bưng lên để trước mặt Phật một bát nấm, hơi lên nghi
ngút.
Phật thọ trai xong,
phán với các đệ tử:
– Bát nấm này có độc,
các ngươi hãy đem đổ đi không nên ăn.
Ông Thuần-đà kinh
hãi, vật mình lăn khóc bên chân Phật. Phật dạy: “Ngươi không nên than khóc,
cũng đừng hối hận. Phải vui sướng lên, vì ngươi đã được cúng dường bữa cơm cuối
cùng cho ta. Có hai bữa ăn đáng kỷ niệm nhất, lần đầu là của nàng Tu-xà-đa cúng
dường ta trước khi ta thành Ðạo và bữa cơm này, trước khi ta vào Niết bàn”.
Phật từ giã ông
Thuần-đà, cùng các đệ tử ra đi được một đỗi đường, Ngài nghe trong mình khó ở,
Phật đưa bình bát và chiếc võng cho A-nan:
– A-nan ! hãy mang
bình bát dùm ta và tìm hai cây Sa-la ở trên đồi kia, treo võng lên cho ta nằm
nghỉ.
Phật đến bên cây
Sa-la, nằm xuống võng. Ðầu Ngài trở về hướng Bắc, mình nghiêng về tay phải, hai
chân tréo vào nhau. Trước mặt đấng Ngài chói lọi một mặt trời tròn xoe và đỏ
rực. Hoa trắng lác đác rơi dọc theo mình Ngài trên thảm cỏ xanh. Hương ở đâu
bay lại, thơm ngát cả khu rừng.
Nhưng đấng Từ bi chưa
đi vội. Ngài sai một Tỷ kheo đi báo tin Ngài sắp nhập diệt cho các đệ tử và dân
chúng ở rải rác trong thành hay.
Trong số các người
đến kính viếng, có một ông già thuộc phái Bà-la-môn, tên Tu-bạt-đà-la đến xin
ông A-nan cho được đến gần Ngài hỏi đạo. Ông A-nan không cho, bảo rằng Ngài
đang mệt. Nhưng Tu-bạt-đà-la cứ nài nỉ xin vào. Lời qua tiếng lại, Phật nghe
được, liền bảo ông A-nan cứ để cho vào. Tu-bạt-đà-la đến sụp lạy bên chân Phật,
thưa :
– Lạy đấng Sáng suốt,
con thường nghe đạo Ngài rất thâm diệu, nhưng con cũng thường nghe bọn ngoại
đạo bảo chỉ có đạo của họ là hợp chân lý. Như thế thì con biết tin theo ai?
Phật dịu dàng dạy:
– Ngươi đừng tin theo ai
cả. Ngươi chỉ nên theo lý trí của ngươi mà phán đoán. Ngươi hãy đem thuyết của
ta so sánh với những thuyết của ngoại đạo, xem pháp nào thực sự mang lại an
vui, hạnh phúc, rồi ngươi sẽ biết nên tin bên nào mà bỏ bên nào.
Ông Tu-bạt-đà-la sụp
xuống ôm chân Phật, khóc kể:
– Ôi rộng rãi thay
lời nói của đấng Từ bi! Con chưa từng nghe một đấng truyền giáo nào dạy như
Ngài! Nhưng ôi! Con đến quá chậm, Ngài sắp nhập diệt rồi, con biết nhờ ai để tu
tập?
Phật để tay lên đầu
ông, dạy:
– Người hãy yên tâm.
Ta sẽ độ cho người. Còn sự tu tập sẽ có các đệ tử ta chỉ giáo cho.
Ông Tu-bạt-đà-la là
người cuối cùng được đấng Từ bi nhận làm đệ tử khi Ngài còn tại thế.
Các đệ tử những bậc
vua chúa và dân gian đến mỗi lúc mỗi đông. Họ kính cẩn cúi đầu đứng quanh Ngài.
Nhưng bỗng giữa bầu không khí im lặng, nấc lên vài tiếng khóc. Phật dạy:
– Ðừng ai thương tiếc
ta như thế! Hãy bình tĩnh trong buổi chia ly này! Các người ơi! Các người còn
nhớ những lời ta dạy chăng ? Ta thường bảo thân thể bao giờ cũng tan rã, những
vật người đời yêu thương, gìn giữ tất rồi có ngày phải chia cách. Làm sao trên
thế giới chuyển di, lại có vật không thay đổi? Ai tìm thấy lại được hình dáng
đã vẽ trên mặt nước?
– Hỡi các tỷ kheo! Ở
đây các người là hạng được nghe rất nhiều giáo pháp của ta, các người phải
chứng tỏ sự hiểu biết của các người bằng những cử chỉ, nhất là giữa lúc này.
Bao lâu nay các người rất gần gũi với ta, trong hành động cũng như trong ý
tưởng, vậy bây giờ không nên vì tình cảm ủy mị, hẹp hòi của các người trong một
lúc mà trở thành xa lạ với ta. Ðừng ai thương tiếc ta như thế!
Ngài gọi ông A-nan
lại gần Ngài, để tay lên đầu ông, vỗ về:
– A-nan ơi! Trong các
đệ tử, ông là người luôn luôn ở bên cạnh ta, và giúp đỡ ta nhiều nhất, ông là
đệ tử rất xứng đáng với ta. Trong việc truyền giáo, công đức của ông không phải
nhỏ. Vậy trước khi nhập diệt, ta có lời cảm ơn ông. Từ đây trên đường đi truyền
giáo, bước chân ta không còn vang dội bên bước chân ông nữa, nhưng đừng vì thế
mà buồn; chúng ta dù có xa nhau cũng chỉ ở hình dáng chứ còn tâm ta vẫn hoà nhịp
với tâm ông trong cái đạo rộng lớn. Ông hãy tu tập để nhận rõ chân tâm, rồi sẽ
gặp ta ở mọi chỗ. Thôi ông hãy đứng dậy!
Sau đó, Phật nhìn ra,
hỏi đại chúng:
– Ở đây có ai không
hiểu hay còn nghi ngờ điều gì về giáo lý của ta thì cứ hỏi, ta sẽ trả lời. Ðừng
để khi ta nhập diệt rồi lại ân hận là không còn ai để giảng giải.
Mọi ngườỉ đều im lặng
nhìn nhau. Phật lại bảo:
– Nếu các người vì sợ
làm mệt ta, hay vì nể ta mà không dám hỏi thẳng thì hãy bàn bạc cùng nhau, khi
nào không thể giải quyết được, ta sẽ giúp cho.
Nhưng đại chúng vẫn
im lặng. Ông A-nan bạch:
– Kính bạch Như Lai!
Ðạo Ngài sáng tỏ như mặt trời. Những lời Ngài dạy cặn kẽ từng gang tấc! Những
điều đáng nói, Ngài đã dạy cho hết cả rồi chúng con không còn điều gì nghi ngại
nữa. Duy, chúng con xin Ngài dạy cho biết sau khi Ngài nhập diệt rồi, chúng con
phải làm những lễ nghi gì để cho xứng với thi hài của một đức Phật?
Phật dạy: “Các người
đừng bận tâm đến việe ấy. Các người hãy chuyên tâm đến sự giải thoát của các
người. Đấy chính là một cách sùng bái ta.
– Hỡi những ai vì
hoàn cảnh mà không thể xuất gia, các người hãy luôn luôn nhớ đến đạo ta! Phải
tinh tấn mãi mãi để thoát ra khỏi lưới dục vọng mà chứng Ðạo!
– Này, các người phải
tự thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Các người hãy
theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác!
Ðừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác!
– Các người làm như
thế là biết ơn ta, là nhớ tưởng đến ta. Và hỡi các Tỷ kheo! Các người có thêm
một bổn phận là truyền đạo ta, thay ta để đưa đường chỉ lối cho mọi người. Các
người phải tìm hiểu đến cùng tột những nghĩa lý sâu xa, mầu nhiệm của giáo pháp
ta để làm lợi lạc cho chúng sanh! Các người phải luôn luôn vượt lên những trở
lực để mãi mãi truyền thừa Ðạo ta cho đến vô cùng tận.
– Nếu các người để
cho đạo Giải thoát của ta suy tàn, ấy là các người mất ta, và các người sẽ làm
mất các người!
– Nếu các người vẫn
trung thành với những lời dạy của ta, ấy là các người nhớ ơn ta, ấy là các
người tôn sùng ta. Nếu các người làm cho đạo Từ bi của ta mỗi ngày một thịnh
mãn, ấy là các người gần ta, và ta sẽ luôn ở bên cạnh các người.
– Này các Tỷ kheo!
Các người đừng nghe dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý
báu. Chỉ có chân lý của Ðạo ta là bất di bất dịch.
– Hãy tinh tấn lên để
giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!”
Bài học: Hãy ghi nhớ những lời dạy cuối cùng của Đức Phật để duy trì sự tinh tấn
trong việc tu tập. Ngài dạy – “hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Cả đời ngài
luôn vì mục đích mang lại hạnh phúc và giác ngộ cho chúng sinh. Hãy nhớ đến hạnh
nguyện của Ngài, mà tinh tấn tu tập, mở rộng trí tuệ và lòng yêu thương, đó
chính là cách đền đáp ơn đức cao dầy của Đức Phật.
(Nguồn: Mẩu chuyện Phật giáo dành cho Thiếu nhi - tập 2)
Cách
đây rất lâu, tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn, có một vương quốc nhỏ gọi là Vương quốc
Ca Tỳ La Vệ. Ở đây, có vị vua Tịnh Phạn
thuộc họ Thích Ca, nổi tiếng về đức hạnh và tài trí, cai quản thống trị.
Kinh đô của ngài rất đẹp, đông đúc dân cư và nhiều khu mua bán, ở đó có nhiều
người tốt bụng, khôi ngô tuấn tú và mắt sáng. Những người phụ nữ kiều diễm đi
trên đường với những nữ trang lấp lánh. Đường phố tấp nập người qua lại, quý tộc
đi xe ngựa, thương nhân cưỡi voi và nông dân đi bộ. Trẻ em chơi đùa và dân làng
đang tắm dọc 2 bên bờ sông tràn ngập ánh nắng. Thành phố được bao bọc bởi những
vườn cây rộng lớn với nhiều hoa, muôn thú và ao hồ mát mẻ. Những chiến binh
dũng cảm đang trên ngựa bảo vệ nhà vua.
Nhà
vua có người vợ tên là Ma Da, xinh đẹp, tốt bụng và yêu quý mọi người. Nhà Vua
và hoàng hậu rất hạnh phúc, ngoại trừ một điều: họ chưa có con.
Vào
một đêm trăng tròn, Hoàng hậu Ma Da mơ thấy một con voi trắng với sáu ngà. Những
vị thông thái tiên đoán rằng ― Hoàng hậu sẽ sinh hạ một thái tử tài đức song
toàn.
Mọi
người trong cung điện chúc mừng khi nghe tin hoàng hậu sẽ sanh hạ thái tử.
Hoàng
hậu Ma Da trở về nhà cha mẹ của mình, chuẩn bị sanh nở theo phong tục Ấn Độ.
Nhà vua ra lệnh dọn dẹp, trang trí hoa và băng rôn dọc đường.
Khi
đoàn tùy tùng đến vườn Lâm Tỳ Ni, hoàng hậu nói, ― Chúng ta dừng chân và nghỉ
ngơi đêm nay trong vườn cây sum suê kia. Bấy giờ là tháng Năm. Những bông hoa
trong vườn nở rộ, tỏa mùi hương thơm ngát. Nhưng con chim líu lo vang lừng, những
con bướm dập dìu dọc lối đi của hoàng hậu và đoàn tùy tùng. Ánh sáng ban ngày bắt
đầu lui dần, Mặt trăng sáng vằng vặc đang cao dần trên ngọn cây.
Hoàng
hậu dừng chân dưới cây Sa La. Hoàng hậu với tay hái bông hoa. Ngay lúc đó, một
bé trai khôi ngô được sanh hạ. Thân thể của bé trai phát ánh sáng chói lòa và
khuôn mặt khôi ngô, tuấn tú, với nhiều vẻ đẹp. Bầu trời tràn ngập hương thơm và
những âm thanh thần tiên. Mọi người ai cũng vui mừng thấy thái tử được sanh hạ.
Những con hươu và muôn thú trong vườn, ý thức về sự kiện đặc biệt đã đến và ngắm
nhìn thái tử.
Mọi
người ngạc nhiên, khi thái tử cất tiếng nói ― “Ta là người cao quý nhất thế giới.
Ta là người thông thái nhất thế giới. Đây là lần sinh cuối cùng của ta”. Rồi
thái tử mỉm cười và đi bảy bước chân. Hoa sen nở dưới chân khi thái tử đi qua.
Lúc
đoàn tùy tùng về đến cung điện. Nhà vua nhìn thấy con mình và nói, ― Ta rất vui
sướng. Hãy để cho mọi người cùng vui sướng với ta.
Trên
đỉnh núi cao hiểm trở, có một người tên là A Tư Ðà sinh sống, người này rất
thông thái, có thể đoán trước tương lai. Một ngày kia, ông nhìn thấy hào quang
tỏa sáng rực rỡ mọi nơi và biết rằng có thể thái tử đã sinh thành. Ông ấy xuống
núi đi đến cung điện, và chúc mừng nhà vua về sự ra đời của thái tử thiên tài.
―
Xin chúc mừng nhà vua và hoàng hậu, đã sinh hạ được cháu bé tài giỏi, A Tư Đà
nói với vẻ vui mừng. Rồi bất chợt ông ấy thở dài, chảy nước mắt.
Nhà
vua lo sợ hỏi, ― Liệu sẽ có điều không may với cháu bé?
A Tư
Đà trả lời, ―Thần không thấy điều gì có thể làm tổn thương cháu bé. Cháu bé này
được sinh ra để mang lại hạnh phúc cho thế giới. Cháu bé sẽ trở thành thủ lĩnh
của mọi người. Thần khóc bởi hạnh phúc, vì cháu được sinh ra trên mảnh đất của
chúng ta. Nhiều điều kì diệu sẽ xảy ra. Thần khóc bởi vì thần chết sớm và không
kịp được học hỏi từ Người.
Cậu
bé này sẽ ngự trị khắp thế giới và trở thành Đức Phật. Tên cậu bé nên đặt là Tất
Đạt Đa, có nghĩa là điều ước được thỏa mãn. Vị thông thái không nói gì thêm ông
lui về hang động của mình trên đỉnh núi tuyết phủ. Đức vua và hoàng hậu rất lo
lắng khi nghe điều này, vì sợ rằng thái tử sẽ đi tu như lời tiên đoán, và không
nối ngôi để trị vì thiên hạ trong tương lai.
(Nguồn: Những mẩu chuyện Phật giáo dành cho thiếu nhi - tập 2)