Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Wednesday, December 26, 2012

Bài Thơ mừng Xuân mới

Bài thơ mừng xuân mới 


Ta viết bài thơ xuân Kỷ Dậu
Ca ngợi người áo vải Quang Trung,
Ta viết bài thơ xuân Quí Tỵ (*)
Và chờ đợi một người Quang Trung mới

Trang sử Việt đã đến mùa gió mới
Gió nghìn năm u uất giữa hồn người,
Gió đau thương trôi giạt giữa giòng đời,
Gió tê giá khi bốn mùa băng tuyết

Hãy lặng im nghe, từ lòng cõi chết,
Hồn nghìn xưa còn sống đến ngàn sau,
Ngọn lửa hồng dưới đáy cõi thâm sâu,
Ai thắp sáng và đang bừng trỗi dậy ?…

Non nước Việt của cha ông còn đấy,
Hồn phục hưng đang réo gọi bao người,
Hãy đứng lên, trận địa giữa lòng người,
Không phải bằng súng gươm bão tố,

Ta phải thắng những yêu ta, man dã,
Những ngu si bắt rễ tự lâu đời,
Những huênh hoang rỗng tuếch của một thời,
Chỉ thấy vòm trời như đáy giếng,

Rồng tiềm phục bốn phương trời ẩn hiện
Thần Kim Qui phiêu dạt bãi Thanh Giang
Lúc hồn nước phiêu linh trời lãng đãng
Buổi xuân về hò hẹn phút đăng quang.

Ta viết bài thơ không giới hạn
Gởi ngàn năm, chốn chốn, vạn đời sau
Đem hoa ngàn, gió núi, suối rừng sâu
Kết tinh lại trong hồn người Bách Việt.

Đây phút thiêng những cuộc đời lẫm liệt
Tự ngàn năm khai mở một chu kỳ
Cho núi sông hoa nở ngát đường đi
Cho nhất phiến tài tình thiên cổ Việt.

Phạm Trường Linh

------
(*) Năm được sửa lại so với Bản gốc cho phù hợp thời điểm hiện tại

Friday, December 7, 2012

Mười lý do nên đi biểu tình chống Trung Quốc

Mười lý do nên đi biểu tình chống Trung Quốc


1. Để khẳng định cho nhà cầm quyền Trung Quốc biết rằng “Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông là khu vực đã có chủ”, không thể ngang nhiên vào đó muốn làm gì thì làm.

2. Để ngăn cản một cuộc chiến tranh chớp nhoáng của Trung Quốc trên biển Đông nhằm hiện thực hóa yêu sách đường lưỡi bò của họ. Cho nhà cầm quyền Trung Quốc thấy được tổn thất sẽ rất lớn (về kinh tế và uy tín) nếu họ xâm chiếm biển Đông và việc chiếm được biển Đông lâu dài là không thể.

3. Để nhắc nhở nhà cầm quyền Việt Nam nhận thức được tầm nghiêm trọng của vấn đề và biết phải hành xử như thế nào để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của đất nước.

4. Để ủng hộ việc Quốc hội Việt Nam thông qua luật biển, đã phản ánh được phần nào tâm tư nguyện vọng của người dân và theo đuổi việc tranh đòi chủ quyền biển đảo của đất nước bằng công cụ pháp lý, thể hiện qua hành động khiếu kiện hành động xâm chiếm của Trung Quốc ra tòa án quốc tế.

5. Để đoàn kết người dân Việt Nam thuộc mọi thành phần, ngành nghề, tôn giáo… trong công cuộc nhận thức về nguy cơ xâm lấn của Trung Quốc và thể hiện quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.

6. Để thực tập xây dựng một xã hội dân chủ bằng việc thể hiện quyền biểu tình và tự do ngôn luận của công dân, những quyền được công nhận trong hiến pháp của nước ta.

7. Để những thế lực đen tối, bôi xấu người yêu nước, ngăn cản việc biểu tình, bôi nhọ lòng yêu nước của người dân là do bị xúi giục, “diễn biến hòa bình”… biết rằng bọn họ chỉ là thiểu số, và những kiểu suy nghĩ, phát ngôn như thế sẽ không thể tồn tại và được nhìn rõ bởi tên gọi “bán nước”.

8. Để đánh động dư luận trong và ngoài nước thông qua các phương tiện truyền thông, thông tấn, báo chí về suy nghĩ thật sự của người dân Việt Nam và sức mạnh đoàn kết của họ khi có ngoại xâm.

9. Để dư luận thế giới biết được bộ mặt thật của một nước Trung Quốc mới giàu, nhưng tham lam, hung hăng, hiếu chiến, thích bắt nạt nước nhỏ và không từ bỏ ý đồ bành trướng lãnh thổ từ thời xa xưa.

10. Để kêu gọi sự thống nhất đoàn kết của khối ASEAN trước ý đồ của Trung Quốc, thể hiện tinh thần đoàn kết, liên đới với nhân dân các nước ASEAN cùng trong hoàn cảnh bị bắt nạt như nước ta.

Sunday, November 25, 2012

LÀM VIỆC MỘT NGUỒN VUI

Gần đây, đọc được vài cuốn sách hay về mối quan hệ giữa công việc và cảm giác hài lòng/ hạnh phúc khi làm việc, cũng rút ra được vài điều ý nghĩa, nên giới thiệu để mọi người cùng tìm đọc.

Quyển 1: Nghệ thuật Hạnh phúc trong Công việc, tác giả Dalai Lama, biên dịch Khánh Vân, NXB. Tôn giáo, 2007

Quyển 2: Làm việc - một nguồn vui, tác giả Tarthang Tulku Rinpoche, dịch giả Thích Nữ Trí Hải (bản điện tử truy xuất tại http://www.quangduc.com/thoidai/90nguonvui.html )

Mỗi cuốn có 1 nét riêng bàn về các khía cạnh khác nhau ảnh hưởng đến niềm vui, hạnh phúc trong công việc. Nhưng qua đó, người đọc sẽ rút ra cho mình nhiều bài học bổ ích, đặc biệt là việc ứng dụng tinh thần nhà Phật trong công việc, từ chọn lựa công việc chơn chánh, cho đến việc đối phó, ứng xử với những hoàn cảnh bất như ý trong công việc... Dưới đây, là trích dẫn lời tựa của Quyển 2 ở trên để mọi người cùng tham khảo.

----------------------------------------------------------


LỜI TỰA (LÀM VIỆC MỘT NGUỒN VUI)


Đối với nhiều người ngày nay, công việc làm đã mất dần ý nghĩa. Nỗi chán chường này không chỉ giới hạn vào một số nghề nghiệp, môi trường hay tín ngưỡng nào, nó từ từ thấm lan khắp mọi ngõ nghách của công việc nói chung. Đây quả là điều bất hạnh, vì công việc vốn dĩ là một phương tiện rất hữu hiệu để chúng ta tìm được lạc thú sâu xa trong đời sống. Công việc có thể là một nguồn suối của sự tăng trưởng, một cơ hội cho ta hiểu thêm về chính ta và để phát triển những tương quan tích cực, lành mạnh với mọi người. Nếu nhìn công việc theo cách ấy thì ta sẽ thấy thực không có gì khác nhau giữa sự dành năng lượng tâm trí mình cho công việc và dành năng lượng để cải thiện sự tỉnh thức và để thưởng thức hương vị đời sống.

Tuy vậy thực không luôn luôn dễ dàng tìm cách khiến cho công việc trở thành một con đường vui sống. Trong khi làm việc với những học viên, tôi vẫn hàng ngày cố khuyến khích để họ tìm được trong chính họ những phương thức ngõ hầu rút được niềm vui, sự viên mãn từ công việc họ làm. Đây không phải là dạy dỗ theo ý nghĩa truyền thống, mà là những gợi ý, cốt để hướng dẫn họ trong công việc và trong sự tự mỡ mang của họ. Sách này có ra từ những ghi chú trong các buổi thảo luận hàng ngày, nó triển khai từ nhiều buổi nói chuyện thân mật. Phương tiện khéo (tên sách nguyên ủy, đã được DG đặt lại) đề cập những cảnh ngộ tiêu biểu mà người ta thường gặp trong công việc và trong đời sống hằng ngày. Đấy là những thói quen mẫu mực tư duy và hành xử vốn thường ngăn cản chúng ta đạt được mục đích mình và tìm được ý nghĩa chân thật trong đời sống.

Thay đổi những mẫu mực đã thành nếp từ thuở nhỏ là một bài học khó nhất cho cả người dạy lẫn người học. Chúng ta thường tưởng rằng những tập quán ta đã quen suốt đời thì không thể nào thay đổi, bởi vậy ta cảm thấy mình bị giới hạn trong một vài việc. Nhưng kỳ thực là không có giới hạn nào cho những gì ta có thể thành tựu, nếu ta thực tình đón nhận mọi cơ hội mà cuộc đời đem lại cho ta. Ta có thể phá vỡ những giới hạn do mình tự tạo, làm những thay đổi lớn, khám phá những khả năng mới mà ta chưa bao giờ biết là mình có được. Quan trọng nhất là ta có thể bừng tỉnh trước những khả năng thực thụ của ta.

Dùng công việc làm phương tiện để tự mở mang và trưởng thành đã đem lại một thay đổi sâu xa trong đời các học viên và cả trong đời tôi. Tôi đã lập nguyện san sẻ với người khác những gì tôi học được, đây là trách nhiệm của tôi, là sự đóng góp của tôi cho cuộc đời. Công việc đã giáo dục tôi một cách phong phú, tôi vô cùng biết ơn về biết bao nhiêu cơ hội tôi có được để học tập và san sẻ.

Trong 20 năm qua, tôi đã có dịp quan sát những lề lối làm việc và lối sống ở cả Đông lẫn Tây phương. Sau khi rời Tibet năm 1959, tôi dạy học và làm việc ở Ấn Độ 10 năm trước khi qua Mỹ. Từ 10 năm nay tôi vẫn làm việc ráo riết hàng ngày cùng với những người Mỹ thuộc nhiều môi trường, nghề nghiệp khác nhau, ở các lãnh vực quản trị kinh doanh, giáo dục, hành chánh, tư vấn, xây dựng, in ấn sách và các nghệ thuật tạo hình.

Mặc dù đóng vai giảng dạy, tự thâm tâm tôi là một kẻ học trò, học sống và học bản tính con người. Hoàn cảnh tôi, sự tu tập của tôi ở Tibet không trực tiếp chuẩn bị cho đời sống trong văn hóa Tây phương, bởi vậy tôi đã vô cùng quan tâm học hỏi từ kinh nghiệm làm việc ở Tây phương. Thông thường khi thấy một nền văn hóa bằng con mắt người ngoài, ta có thể có một nhãn quan mới về những hoàn cảnh, những thái độ mà người trong cuộc thường cho là bình thường. Tôi đã thấy và đã cảm được nỗi chán chường mà nhiều người cảm thấy đối với công việc của họ.

Thế mà tôi lại thấy công việc của mình rất bõ công, rất hứng thú, mặc dù công việc ấy không phải luôn luôn dễ dàng gì.

Mục đích của sách này là san sẻ với bạn đọc những kinh nghiệm ấy, mong chúng có thể giúp bạn tìm ra nguồn vui lớn trong công việc và trong đời sống. Mỗi con người là độc nhất vô nhị, mỗi hoàn cảnh sống cũng khác nhau, bởi thế mỗi cá nhân có thể tìm thấy trong đây một điều riêng có giá trị với họ, để thúc đẩy họ tìm cách nhận ra những khó khăn, rồi vượt qua chúng, và tiến lên để trưởng thành và được thỏa mãn.

Khi sử dụng phương tiện khéo, ta đi thẳng vào công việc mình, hành động ngay để giải quyết vấn đề, và khai mở tiềm năng tự nhiên của ta. Mỗi chúng ta đều có tiềm năng ấy và nếu nhận ra được nó thì ta có thể san sẻ với ngưới khác những tuệ giác và tình yêu của mình đối với công việc. Cuối cùng ta có thể đem lại lợi ích và niềm vui cho tất cả mọi người, để mọi người cũng học tập cách sống những cuộc đời đem lại cho họ thỏa mãn.

Có thể có người ưa triển khai những tư tưởng này cho phù hợp với tiến trình công việc của riêng họ, với sự tăng trưởng nội tâm họ. Ai đề ra những ý tưởng này trước tiên là điều không quan trọng, điều quan trọng là cái giá trị của việc thực hành những ý tưởng này trong công việc và trong mọi sự khác nhau của cuộc sống.

Đây là một thời đại thật khó sống, khó mà làm mọi sự cho thật có ý nghĩa, nên đa số người đang tìm cách làm cho công việc và đời sống họ đem lại niềm vui và ý nghĩa. Và đây là một vài suy tư tích lũy trong nhiều năm qua, mà tôi muốn san sẻ cùng các bạn.

Tôi muốn bày tỏ niềm biết ơn sâu xa đến các học viên, cộng sự viên ở nhà xuất bản Dharma Publising về sự giúp đỡ của họ trong việc xuất bản sách này. Sự đóng góp thì giờ và năng lực của họ thật vô giá trong việc cho ra quyển sách này.

                                                             TARTHANG TULKU
Tháng 10, 1978

Wednesday, November 7, 2012

Tưởng Nhớ Ơn Thầy


Tưởng Nhớ Ơn Thầy

Con chẳng thể nào quên buổi đầu đến lớp
Đã cho con bao cảm xúc rộn ràng
Trường thì lạ và bạn bè chưa có,
Chưa đến giờ luẩn quẩn dưới chân thang.
Thầy đã đến và nhìn con rất lạ,
Thật nghiêm trang mà thân ái dịu dàng
"Vào lớp đi, can đảm lên chú bé
Ba bữa thôi lại phá xóm phá làng"
Lời nói thầy thẳng băng như thước kẻ,
Mà sao con lại thấy ấm cả lòng,
Đôi mắt thầy trầm ngâm và lặng lẽ
Thắp trong tim con bao ánh lửa hồng.

Kể từ đó con say mê học tập,
Thôi biếng lười, thôi phá lớp xé rào.
Lời thầy giảng âm vang cao lồng lộng
Trăm điều hay, lẽ phải, sống thanh cao
Đời học sinh có đến trăm thầy giáo
Đã cho con bao tình cảm tin yêu
Đã cho con sự hiểu biết thật nhiều,
Từ cuộc sống, từ kho tàng tri thức.
Nhưng riêng thầy, thầy ơi, sự thực
Đã cho con rướm máu tâm hồn
Bởi chiều sâu thăm thẳm của lòng con,
Thầy đã tới và giúp con biết sống.

Kể từ đó, khi đáy lòng con rung động
Hòa nhịp vào cuộc sống của nhân gian
Con vui tươi vẫn học tập chăm ngoan
Nhưng con hiểu cả chiều sâu sự việc.
Con thể hiện lòng yêu đời tha thiết,
Yêu con người, yêu cuộc sống vô biên,
Biết chế ngự mình trước những đảo điên,
Dẫu nghịch cảnh, vẫn điềm nhiên khoan thứ.
Nét đẹp lòng thầy mỗi khi xử xự,
Thật dịu dàng, sắc sảo cánh hoa bay,
Đối với người trên, kẻ dưới giữ lòng ngay
Đối với mình biết dung nhân khắc kỷ

Và hôm nay, con đã làm thầy giáo
Bên bảng đen, trường lớp vẫn còn đây
Nhưng bóng thầy xưa như cánh hạc bay
Đã về cõi vô cùng xa, lồng lộng
Và đâu đó, giữa biển trời cao rộng
Lòng của thầy hòa nhập với lòng con
Ước mơ xưa thầy, giấc mộng vàng son,
Con sẽ viết nên trong cuộc đời cách mạng...

(Phạm Trường Linh)

Monday, October 29, 2012

Thi kệ về tiền bạc


Mấy ngày nay, tự nhiên nhớ lại mấy câu thơ về tiền bạc Bố đọc tặng vợ chồng mình trong ngày đám cưới, thấy thật thấm thía. Tiền bạc đúng là có ý nghĩa rất lớn, nhưng nó không phải là cái quyết định hạnh phúc, mà chính nhận thức về nó và cách sử dụng nó mới quyết định hạnh phúc trong cuộc đời.

Bố không còn nữa, nhưng lời dạy của Bố con sẽ mãi ghi nhớ và cố gắng thực hiện. Post lại đây để ghi nhớ trong lòng và ứng dụng trong cuộc sống.

"Ai có của bỉ khinh cũng mặc,
Đừng vì tiền gay gắt với ai,
Có ra thì đỡ xây xài,
Không thì nhịn chiụ chớ cay đắng lòng,

Nghèo thì nhớ lòng trong dạ sạch,
Giàu thì nên bố đức thi ân,
Có dư chớ hưởng riêng thân,
Nên cho kẻ khác lây phần ấm no.

Được như vậy, được kho công đức,
Sống đời đâu khổ cực vì đời,
Trong tâm thường được thảnh thơi,
Tuy trong cõi tục mà đời thần tiên..."

(Nguồn: "Thi kệ về tiền bạc" của Thầy Thanh Sĩ)

Sunday, October 14, 2012

Khóc lên đi, hỡi quê hương yêu dấu

Khóc lên đi, hỡi quê hương yêu dấu 
 
Cuộc chơi khắc nghiệt vô cùng
Bốn bề cạm bẫy trùng trùng dã man
Kể từ đầu trận mở màn
Quê hương thấy được điêu tàn mấy khi

Người về, ai bước chân đi,
Thành xiêu phố lạc kinh kỳ tang thương,
Tiếng thu rời rụng đoạn trường
Biển khơi lớp sóng trùng dương mấy mùa.

Em ơi ! hoa nở từng mùa
Mà quê anh cả bốn mùa không hoa,
Hay là chết mất hồn hoa,
Chỉ còn sương khói đường ra biên thùy
Tiếng mưa rờn rợn lối đi
Tiếng sương rụng xuống chiều đi không về
Đã bao chiến sĩ gươm thề
Dưới trăng mài kiếm trọn thề nước non
Mong cho hạn cuộc vuông tròn
Máu xương đã chất thành con sông dài
Quê hương vọng tiếng u hoài
Còn trông ngóng một ngày mai yên bình

PHẠM TRƯỜNG LINH

Sunday, September 23, 2012

Vào cuộc vô thường

Vào Cuộc Vô Thường

Chào nhau ngả nón bên đường
Em đi vào cuộc vô thường mà chơi
Trời sinh chiếc lá phải rơi
Tiếng chim phải lảnh lót đời tịch liêu
Sợi vàng
cho nắng ban chiều
Xanh xao
cho ánh trăng điêu tàn và
Lửa hồng cho gió đông qua
Giáo gươm cho cuộc phong ba chuyển dời

Yêu thương cho ấm hồn người
Prajna bỉ ngạn cho đời trầm luân...

Phạm Trường Linh

Tuesday, September 11, 2012

Một năm rồi anh nhỉ ?

Một năm rồi anh nhỉ ?

Vậy đó một năm anh đi từ đấy Thỏang như cơn gió nhẹ thổi qua đời Buổi ra đi không nói kịp một lời Mẹ ở lại cơn mơ nào có thấy ?
Mẹ vẫn gọi như hàng đêm vẫn đợi Bóng anh về, dõi mắt ngóng trông theo Nhớ thương đầy trong ký ức nhăn nheo Hình ảnh cũ mỗi ngày qua mỗi mới
Căn nhà rộng vang tiềng bầy con trẻ Lúc quây quần vẫn nhắc đến cha xưa Dáng ai ngồi trong nắng sớm chiều mưa Nghe thấp thóang bước chân về - rất khẽ
Anh sải bước hiên ngang trong cõi mộng Khi hiểu rồi câu "Sắc tức thị không" Hiểu mọi người lần lượt sẽ qua sông Phận lữ khách phải lìa xa Bến Sống
Kể làm chi một năm hay một kiếp Một làn hơi thôi nhé bước sang bờ Chuyện tử sinh ai có thể hẹn giờ ? Người ở lại mai về khi rũ nghiệp
Vây có chi mà buồn đau thê thiết Vây có gì mà cay đắng bi thương Anh đã đi , trong bóng nắng Vô Thường Hòang hôn lặn chào bình minh giã biệt
Chúng ta đến và đi như ngọn gió Níu làm sao dư ảnh với thời gian Trót sinh ra , hoa phải có khi tàn Anh cảm nhận hồn xanh trên ngọn cỏ
Thế là hết một năm rồi anh nhỉ ? Ngày giỗ đầu xin thắp nén tâm hương …..
Nguyên Cẩn ( 3/9/ 2012)

Friday, August 24, 2012

Bông hồng cài áo

Gần tới rằm tháng 7, mùa Vu Lan báo hiếu, tự nhiên thích nghe lại bài Bông Hồng Cài Áo, nên post lại ở đây, để nhắc nhở bản thân và mọi người là một mùa Vu Lan lại về. Vào mùa báo hiếu này, mọi người nên tự ngẫm lại xem liệu mình đã làm được gì để báo đáp công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn của cha mẹ hay chưa, nếu chưa thì hãy cố gắng thực hiện một việc gì đó dù là nhỏ nhoi nhất. Chúc mọi người 1 mùa Vu Lan an lạc, hạnh phúc!

Thursday, August 9, 2012

Vài góp ý cải tiến hệ thống xe buýt Tp.HCM


Vài góp ý cải tiến hệ thống xe buýt Tp.HCM 

Gần đây có dịp đi xe buýt nhiều, do phải về quê thăm vợ con, nên cũng có điều kiện hiểu thêm về hệ thống xe buýt đô thị ở TP.HCM. Có thể đánh giá chung là so với trước đây, hệ thống xe buýt ở TP.HCM đã có nhiều cải tiến, như: số tuyến nhiều hơn, cung cách phục vụ chuyên nghiệp hơn, thông tin và bản đồ các tuyến nhiều hơn... Tuy nhiên, đó là so với trước đây thôi, chứ so với yêu cầu về chất lượng của một hệ thống xe buýt hiện đại thì cũng còn nhiều vấn đề cần cải tiến, như: hệ thống thông tin, hình thức vé, cơ sở vật chất và cách thức lên xuống xe... Qua kinh nghiệm đi tuyến xe buýt trước nay, cùng với những quan sát gần đây khi đi tuyến Sài Gòn-Củ Chi và Củ Chi-Hậu Nghĩa, tôi có thể rút ra một số vấn đề cần cải tiến. Ngoài ra, bằng việc đối chiếu, so sánh với hệ thống xe buýt ở Kyoto, Nhật Bản, mà tôi cũng có điều kiện đi nhiều trong thời gian du học, hy vọng sẽ có thể rút ra một số góp ý giúp cải tiến sự vận hành của hệ thống xe buýt ở TP. HCM nói riêng và ở Việt Nam nói chung.

Vấn đề đầu tiên đối với hệ thống xe buýt Tp. HCM hiện tại là hệ thống thông tin còn thiếu và chưa rõ ràng. Lấy ví dụ, khi muốn tra cứu tuyến xe buýt, khách đi xe lần đầu sẽ rất vất vả vì không biết phải tìm kiếm thông tin ở đâu để trả lời rất nhiều thắc mắc, như: đi xe số mấy, đón xe chỗ nào, lúc mấy giờ, có cần phải đổi chuyến hay không... Những thông tin như thế chưa được in và phát một cách rộng rãi tại các bến xe ở TP.HCM. Hiện tại, để tra cứu tuyến xe, hành khách thường phải hỏi thăm người quen biết, hoặc tự mình tra cứu trên các bảng mô tả tuyến đường ở các trạm xe buýt. Tuy nhiên, thông tin chỉ dẫn thường khó đọc và không đầy đủ. Gần đây hơn, hành khách có thể tra cứu các thông tin trên ở website của công ty xe buýt, tuy nhiên thông tin cũng ở dạng liệt kê các tuyến đường đi qua, mà chưa được tích hợp với hệ thống bản đồ trực tuyến và kết nối với các phương tiện giao thông công cộng khác. So với Việt Nam, hệ thống thông tin xe buýt của Nhật tốt hơn hẳn. Ở Nhật, các thông tin về tuyến xe buýt thường được in rõ ràng, đầy đủ và được phát miễn phí ở các bến xe, trung tâm thông tin. Ngoài số lượng phong phú, chất lượng thông tin của các Bản đồ tuyến xe buýt cũng hơn hẳn ta. Thay vì chỉ liệt kê tên đường đi qua của mỗi tuyến, một bản đồ tuyến đường xe buýt được sử dụng biểu diễn lộ trình của các tuyến xe buýt đi qua trạm đó, với mỗi tuyến là một màu khác nhau. Bản đồ này được in to, rõ tại mỗi trạm dừng và trên các tờ rơi được phát miễn phí ở các trạm thông tin khắp thành phố. Hơn nữa, khi bạn đến bất kỳ trạm xe buýt nào, bạn sẽ biết được giờ chạy của tuyến xe mình quan tâm, và biết được còn phải đợi bao nhiêu phút nữa. Ngoài ra, việc tra cứu tuyến đường ở Nhật được thực hiện rất dễ dàng từ website hệ thống thông tin giao thông tích hợp của thành phố. Từ hệ thống này, chỉ cần đưa vào điểm xuất phát, giờ khởi hành và điểm đến, hệ thống sẽ tìm ra các phưong tiện giao thông có thể đi, tuyến xe cần đi, thời gian đi và giá vé tương ứng. Điều này giúp cho hành khách tiết kiệm được rất nhiều thời gian và công sức tra cứu, đồng thời thúc đẩy nhu cầu đi lại bằng các phương tiện vận chuyển công cộng của thành phố.

Vấn đề thứ hai là hình thức phát hành vé xe. Ở TP. HCM hiện chỉ có 2 loại vé là vé xe tháng và vé đi từng lượt, đều dưới dạng giấy in. Vé lượt được bán cho hành khách trên từng lượt đi bởi nhân viên soát vé, còn vé tháng có thể mua tại các quầy vé hoặc mua trên xe. Còn ở Nhật, hành khách có thể mua vé trên xe, tại quầy bán vé ở các nhà ga, hoặc các máy bán vé tự động, và hình thức vé thì rất phong phú. Chẳng hạn, hành khách có thể trả tiền trực tiếp khi đi xe, mua vé ngày, vé tuần, vé tháng hoặc vé dạng thẻ trả trước và có thể nạp tiền về sau. Với vé ngày, hành khách có thể lên xuống xe buýt bao nhiêu lượt trong ngày cũng được. Ngoài ra, còn có các dạng vé khuyến khích du lịch, cho phép hành khách đi lại bằng nhiều phương tiện trong 1 khoảng thời gian hoặc trong 1 khu du lịch. Điều này có lợi cho cả du khách và các hãng vận tải, khách có thể tiết kiệm chi phí đi lại nhờ các vé loại này, còn các tuyến xe thì tăng thêm lượng khách.

Vấn đề thứ ba là cơ sở vật chất, trang thiết bị trên xe, đây cũng là lĩnh vực có nhiều vấn đề cần cải tiến nhất. Đầu tiên, đó là vấn đề giữ gìn vệ sinh trên xe. Có thể nói cảm giác chung là xe buýt không được sạch, máy lạnh không đủ mát, thiếu các ghế ngồi dành riêng cho người già, tàn tật và phụ nữ mang thai. Nếu không được làm vệ sinh thường xuyên, khó có thể đảm bảo chất lượng phục vụ và duy trì hình ảnh chất lượng cao. Việc vệ sinh xe còn phải gắn liền với việc kiểm tra định kỳ nệm chỗ ngồi, tấm trãi sàn, màn che nắng, cung cấp các thông tin hướng dẫn trên xe... Khi xe quá đông, cần bố trí chỗ đứng thoải mái, có tay cầm phù hợp với chiều cao người Việt Nam. Khi trời mưa, cần có miếng dậm chân ở lối lên để hạn chế sàn xe bị dính dơ. Ngoài ra, cũng cần bổ sung các hướng dẫn bằng tiếng Anh hoặc hình vẽ để khách nước ngoài có thể hiểu được. Việc phát triển các tuyến xe buýt mới nối liền các khu vực có nhu cầu đi lại nhiều hoặc tăng mật độ một số tuyến đông khách cũng cần được cân nhắc để thoả mãn hơn nữa nhu cầu đi lại của khách.

Vấn đề sau cùng là cách thức lên xuống xe. Hiện nay, trên mỗi xe buýt ở Việt Nam thường có 2 người là Bác tài và nhân viên phụ trách thu tiền, nhân viên này còn làm nhiệm vụ hỏi xem khách xuống chỗ nào để nhắc Bác tài dừng xe cho khách xuống. Tuy nhiên, số lượng khách thì nhiều, nên không thể nào nhớ hết được. Vì vậy, cách làm thông thường là khi đến trạm nào hay có khách xuống, nhân viên này sẽ hỏi lớn lên xem trên xe có ai xuống trạm XYZ này hay không, nếu có thì nhắc Bác tài dừng xe. Cách làm này thường dẫn đến sự ồn ào trên xe và đôi khi khách bị đi lố trạm vì trạm khách cần xuống bị quên hỏi. Ở Nhật, trên xe buýt chỉ có một mình Bác tài, nhưng việc lên xuống xe vẫn rất hiệu quả và yên ả. Cách làm như sau, trên xe có một bảng thông tin điện tử để thông báo tên trạm sắp tới và các đoạn băng ghi âm sẳn để hướng dẫn các địa điểm khách có thể xuống và chuyển sang các tuyến khác. Trên mỗi ghế ngồi đều có một nút nhấn, nếu khách muốn xuống trạm tới chỉ việc nhấn nút này, khi đó đèn báo hiệu sẽ bật đỏ và Bác tài biết sẽ dừng ở trạm kế. Ngoài ra, với máy thu tiền và đổi tiền được gắn trên xe, khiến cho khách hàng dễ dàng trả tiền trước khi xuống xe, và bác tài có thể kiểm soát được việc trả tiền. Vì vậy, mọi việc diễn tra một cách trật tự và không có một tiếng ồn, chỉ trừ tiếng Cám ơn của Bác tài và hành khách.

Nói tóm lại, trên đây là một vài ghi nhận nhanh về cách vận hành thực tế của một vài tuyến xe buýt ở TP. HCM và một vài gợi ý cải tiến dựa vào kinh nghiệm khi đi xe buýt ở Kyoto, Nhật Bản. Các gợi ý tập trung ở 4 khía cạnh chính: cải thiện hệ thống thông tin xe buýt, mở rộng loại hình vé, nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ, và cải tiến hình thức thông tin về nhu cầu xuống xe của khách. Có thể những góp ý này chưa thật đầy đủ, nhưng hy vọng chúng có thể giúp ích được phần nào cho những người làm công tác quản lý vận hành hệ thống xe buýt ở Việt Nam. Từ đó, làm cơ sở để nghiên cứu kỹ hơn và đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ giao thông công cộng của thành phố theo chuẩn khu vực và quốc tế, để có thể đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu đi lại của người dân, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý và tăng hiệu năng vận tải cho các hãng xe buýt.

TS. Phạm Quốc Trung,
Khoa Quản lý Công nghiệp, ĐHBK TP.HCM

Friday, July 27, 2012

12 Vấn đề xã hội dưới cái nhìn Phật giáo

12 Vấn đề xã hội dưới cái nhìn Phật giáo

Trong một cuộc đàm thoại giữa thính chúng thuộc nhiều thành phần xã hội, là nhà truyền thông, nhà giáo dục, chính khách, …Đức Lạt Lai Lạt Ma đã trả lời các câu hỏi về nhiều vấn đề đời sống xã hội tham của người tham dự một cách thẳng thắn và có duyên. Với phong thái gần gũi, chân thật và giản dị, và qua những câu trả lời này, phần nào đó trả lời câu hỏi: tại sao Đức Đạt Lai Lạt Ma được nhiều người, đặc biệt là ở các nước phương Tây yêu mến đến thế.

1.Kính thưa Ngài, khi còn bé Ngài đã tỏ ra phi thường. Những trẻ em lo âu cho tương lai của tinh cầu đã thành lập một hội đoàn. Ngài có đều gì muốn nói với trẻ em ngày nay?
Tương lai là cái gì ở trước mặt chúng ta, và vì vậy, nó rất quan trọng. Trẻ em có trách nhiệm về tương lai ấy. Vì rằng bản tính con người căn bản là tốt, nên trẻ em, khi còn rất nhỏ, không phân biệt lắm giữa người này và người nọ. Các em có một tình thương và lòng nhân tự nhiên. Ví dụ đối với các em, nụ cười của người đối diện quan trọng hơn chủng tộc, quốc tịch hay văn hóa của họ. Điều này, theo tôi rất đáng quý và nó khiến tôi hy vọng ở tương lai. Nhưng mặt khác thì tôi lại thấy hơi lo: trẻ em đương nhiên có tâm hồn cởi mở và tốt bụng, nhưng một vài khía cạnh của nền giáo dục mà các em hấp thụ làm tăng thêm mối chia rẽ giữa các em, điều này chung cục sẽ tạo nên hố ngăn cách giữa trẻ em và những người khác.
Vì vậy,tôi thấy là song song với giáo dục, điều tối cần là phải phát triển lòng nhân mà bẩm sinh các em vốn có. Nghĩa là giáo dục phải hòa hợp với bản chất nhân hậu của trẻ. Điều chính là nuôi dạy nó trong một môi trường thương yêu và trìu mến. Mặc dù, lý tưởng mà nói rằng, nếu phải lựa chọn nhiều đức tính rất quý khác và lòng nhân, chắc chắn tôi sẽ chọn lòng nhân.
Thật vậy, giáo dục cùng với trí thông minh bẩm sinh của con người, dù quan trọng cách mấy cũng không đủ để tạo dựng tương lai. Tâm hồn chúng ta phải thấm nhuần đức vị tha, bằng cách cảm nhạn giá trị nhân bản nòng cốt như tình thương đồng loại. Hãy tự tạo cho mình lòng nhân và tinh thần khoan dung; hãy cho trí thông minh của ta phong phú lên nhờ đức tính ấy, và khai thác những đức tính có được giáo dục, để cả chúng ta và xã hội quanh ta đều được mãn nguyện và hạnh phúc.

2. Tại sao ở phương Tây cha mẹ và con cái lại “thường bất hòa” nhu vậy?
Tôi cũng chẳng biết nữa. Có nhiều yếu tố và đều kiện như: thói quen, phong tục và tấm gương cho trẻ noi theo. Điều có thể tạo nên xung đột trong gia đình. Dĩ nhiên thật đáng buồn khi mà giữa cha mẹ và con cái, tình thương yêu không còn nữa. Tôi không thể giải thích những mối bất hòa như vậy bằng một nguyên nhân duy nhất nào. Vì có nhiều nguyên nhân, nên khi tìm cách giải quyết văn đề, phải nhận định chúng một cách bao quát, toàn diện.

3. Những quan điểm chính trị và kinh tế của các nước phương Tây đã vận hành tương đối tốt trong thập niên 1960, nhưng mọi sự không ổn trong thập niên này. Người ta không còn thấy bằng lòng nữa. Làm sao chỉnh đốn lại tình thế?
Từ lúc hãy còn rất bé, tôi đã ham thích kỹ thuật. Một số người cho rằng chính việc phát triển kỹ thuật đã không hoàn toàn đáng mong muốn. Tôi thì không nghĩ vậy. Tôi nghĩ rằng tất cả điều do ở thái độ chúng ta, và chúng ta có quyền sử dụng nó và điều tốt hay điều xấu. Vậy nên, tất cả đều tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy chúng ta, vào cách chúng ta áp dụng kỹ thuật. Tôi nghĩ hiện nay chúng ta đang chứng kiến một sự tăng gia kiến thức sâu rộng, nhưng người ta lại không quan tâm phát triển lòng tốt, thiện tâm và tình thương yêu đồng loại cho bằng quan tâm đến kiến thức.
Tuy vậy, tôi nghĩ rằng hiện nay mọi sự đã rất rõ ràng. Con người không phải là sản phẩm của máy óc. cho nên không mong gì có được hạnh phúc thật sự nếu chỉ tùy thuộc vào ngoại cảnh. Dĩ nhiên, chúng ta cần có một tối thiểu tài sản vật chất, nhưng nó không phải là nguyên nhân mang lại hạnh phúc. Những nguyên nhân thật sự để được hài lòng mãn nguyện phải tìm trong nội tâm ta. Tôi nghĩ đều ấy rất rõ.
Mặc dù khó giải thích tiêu này, tôi xin cố gắng diễn tả ý nghĩa của lời giải quyết ấy. Trước hết phải nhìn nhận hạnh phúc thể hiện trong tâm hồn chúng ta. Những kẻ chỉ suy nghĩ bằng khoa học kỹ thuật, với chủ trương là có thể giải quyết và hoàn tất mọi chuyện nhờ có tiến bộ, đều là cực đoan. Tôi phải nhìn nhận đâu là giới hạn của một lối nhìn như vậy. Khởi đầu bằng cách định đường ranh này khiến chúng ta khỏi phải ngỡ ngàng khi gặp những trở lực ngoại giới. Theo ý tôi, khi gặp khó khăn chúng ta đừng nên quá gần mà quan sát chúng. Ngược lại, hãy đứng xa ra một chút, nhìn với một tam hồn cởi mở hơn, trong một bối cảnh bao quát hơn; khi ấy chúng ta sẽ tìm ra được giải pháp dễ dàng hơn. Ví dụ chúng ta đang gặp vấn đề nan giải. Nếu cứ đứng thật gần mà nhìn, ta sẽ thấy khổ đến không chịu nỗi, vì vậy cứ phải suy gẫm toàn những mặt tiêu cực. Ngược lại, quan sát vấn đề từ một khoảng cách, biểu lộ một cung cách thoải mái hơn, và xét vấn đề dưới những góc độ khác nhau, thì giúp chúng ta tìm được những khía cạnh tích cực của tình huống. Tôi thấy là cần phải kết hợp trí thông minh tự nhiên của mỗi người với lòng can đảm, để tạo ra niềm tin thật sự. Kinh nghiệm riêng đã dạy tôi rằng nhờ có thái độ này mà ta để đạt đến sự yên tĩnh của tâm hồn.

4. Các chính tri gia có thể có biện pháp nào để cho người dân được sung sướng hơn?
Tôi nghĩ vai trò này không chỉ giới hạn cho các chính trị gia mà thôi. Nó liên quan đến mọi người, những nhà giáo dục, khoa học gia, những người thiết lập các lý thuyết chính trị, các nhà tâm lý học, những người chuyên về khoa học tâm linh, những nhà trí thức. Tóm lại, việc tìm kiếm những phương thức cho sự bình an nội tâm là công việc của mỗi người. Ví dụ ngành y khoa ngày càng khám phá thêm nhiêu tương quan giữa sự thanh thản tâm hồn và sự lành mạnh thể xác. Đó là những công trình nghiên cứu đáng được phát triển thêm về chiều sâu.
Tôi phải nói rằng, quý vị trong hệ thống thông tin báo chí ở thời điểm này đóng vai trò rất quan trọng. Hệ thống thông tin báo chí hiện nay thuộc về một thời đại tân tiến và trong một phương diện, tôi tin ngành báo chí hành động như một nhà giáo dục, như một nhân tố kích thích tâm hồn con người. Như vây quý vị có một vai trò rất đặc biệt. Về điều này, tôi xin trình bày với quý vị một vài ý kiến: Tôi có cảm tưởng là ngành báo chí thông tin chú ý quá nhiều đến mặt xấu của những hoạt động của con người, khiến cho quần chúng có cảm tưởng là bản tính con người hoàn toàn xấu. Khi nghĩ như thế, tự nhiên người ta chán nản và thật sự có nguy cơ mất hết hy vọng. Loài người có bao nhiêu chuyện để đau khổ, dù chỉ trong phạm vi hạn hẹp của gia đình. Dù có muôn vàn vấn đề mà con người gặp phải, vẫn có một tiềm năng để biến đổi: vẫn có thể làm cho hoàn cảnh đó tốt đẹp hơn, vì thương cảm và từ bi ở trong bản tính của chúng ta. Bằng cách liên kết thông minh của con người với một động cơ thúc đẩy tốt lành, chúng ta có thể thay đổi cuộc đời của chúng ta, và cải tạo xã hội. Đối với tôi, đây là điều then chốt. Vì vậy tôi nghĩ rằng khi trình bày những vấn đề có quan hệ đến con nguồn thì quý vị nên trình bày một cách quân bình hơn. Dĩ nhiên tất cả những mặt xấu này của cuộc đời cũng đều quan trọng, chúng cho báo chí những chất liệu tốn nhưng cúng đừng quên đưa ra những mặt tốt của cuộc đời, căn bản trên bản chất con người và trí thông minh của ta.
Gần đây, trong một số quốc gia người ta bàn cãi nhiều về vai trò của báo chí. Có nên nói hoạch toẹt hết mọi chuyện không? Phải nói cách nào? Chỗ nào trong đời tư, báo chí không được đụng đến? Tôi có vài ý kiến về vấn đề này, nhất là đối với những nhân vật lãnh đạo. Có trường hợp mà một số vị này không cư xử đúng đắn trong cương vị của họ, không tỏ ra có nguyên tắc hay kỷ luật tự giác. Trường hợp này tôi nghĩ rằng chỉ có báo chí mới có quyền năng kiểm điểm, và đưa ra ánh sáng, những cung cách hành động như vậy; do đó, tôi ủng hộ hành động của nhà báo và đánh giá cao khía cạnh lục lọi dò xét. nơi nào cũng xen vào của họ. Không nên có khoảng cách chênh lệch giữa thể thống bên ngoài và đời tư của một người lương thiện. Tôi nghĩ báo chí phải cho công chúng thấy rằng một số khía cạnh hấp dẫn khác hẳn. Chính trong chiều hướng đó mà tôi hơi khuynh về sự can thiệp vào đời tư của người ta, nhưng không phải vì vậy mà quên rằng chủ đích chung của chúng ta là phục vụ con người để kiện toàn xà hội. Đừng hành động sai lạc, do những động cơ xấu thúc đẩy. Tôi tin là, nếu người ta không phơi trần hết thảy những tệ nạn xã hội như nghiện thuốc, giết người, hãm hiếp và lạm dụng trẻ em, thì những kẻ vô tội sẽ cứ hàng ngày chịu khổ. Nếu báo chí giải thích rõ ràng, công chúng rốt cục phải chú ý và tìm ra cách giảm bớt khổ đau.
Tôi cũng nghĩ rằng, khi nói đến luân thường đạo lý thường thì người ta gắn liền với nó với những khái niệm tôn giáo. Theo tôi, tách rời hai khái niệm luân lý và tôn giáo là điều quan trọng. Tôn giáo, lẽ di nhiên giúp chúng ta hiểu được đạo đức theo chiều sâu duy trì và phát triển nó, nhưng khi nói đến lòng vị tha hay tình thương yêu đồng loại chẳng hạn, phải biết tha thứ đạo đức này tự nó mà có. Không phụ thuộc vào tôn giáo, vì nó bắt nguồn từ bản tính thâm sâu của con người, đó là lòng nhân và tình thương yêu.

5. Ngài có thể nói khái niệm nghiệp tập thể, nghiệp chung của một quốc gia? Nghiệp chung này mô tả cái gì ?
Nói về nghiệp chung của một quốc gia là một đều dễ hiểu. Tuy nhiên, mặc dù sự chín muồi nghiệp quả của những người trong cùng một nhóm được gánh chịu trong cùng một lúc, điều này không có nghĩa là những nghiệp này được tích lũy trong cùng một thời gian. Tôi không tin là những duyên của một nghiệp chung được tạo ra cùng một lúc, mà chúng được tạo ra trong từng cá thể vào những thời đềm khác nhau. Sức mạnh của những hành động này và nhiều yếu tố khác nữa có thể tạo nên một sự nghiệp chung mà một nhóm người hay cả một nước phải gánh chịu.

6. Những tội nhân chiến tranh trong phần gương những xứ Âu Châu, Đông âu, và những quốc gia khác tại Á Châu như Cam Bốt và Việt Nam đã không hề được xét xử, và có khi còn được ân xá ngay cả trước khi được xét xử. Ngài nghĩ thế nào về việc này?
Thật đáng buồn, trong nhiều nước vừa mới thoát khỏi chế độ đàn áp, người ta thường biểu lộ lòng căm hờn và ý muốn trả thù trong khi đáng lẽ phải biết tha thứ và chấp nhận. Đây không phải là lúc trả thù và thanh toán trong những nước đã được dân chủ này. Ngược lại, đây là lúc tái thiết quốc gia, xã hội. Tôi đã bày tỏ điều này khi được viếng thăm một số trong những nước đó.
Tôi rất quý trọng và ngưỡng mộ những nghĩa cử của các tổ chức như cơ quan ân xá Quốc tế, họ làm việc một cách chân thành, có hiệu năng và tích cực trong lĩnh vực vi phạm nhân quyền.

7. Ngài nói đến sự giải giới nội tại mà phải kèm theo giải giới ngoại tại. Xin Ngài nói rõ thêm giải giới nội tại là gì trước thù hận của kẻ địch, trước lòng căm hận của chính mình. Trong tác phẩm Les Voies du Coeur, Ngài cho thấy có thể thành lập trong tương lai mộ đạo quân quốc tế. Vì Ngài chủ trương bất bạo động, thì họ sẽ hoạt đóng cách nào đây? Họ sẽ được vũ trang không?
Ai cũng biết ràng khả năng chém giết vẫn tồn tại chừng nào người ta còn vung gươm múa kiếm trong những bang giao quốc tế, hay cả trong phạm vi mỗi quốc gia. Mặt khác, phải xét lại vấn đề mua bán vũ khí vì tình thế hiện nay vừa khủng khiếp vừa vô trách nhiệm. Chúng ta suy nghĩ rất nghiêm chỉnh đến vấn đề vũ trang mà, một khi đã phân tích cặn kẽ, cho thấu rõ cơ chế quân đội là yếu tố chính dẫn đến tình trạng suy thoái của tình trạng hiện nay, mà nạn khủng bố là do vũ khí mà có. Vì vậy nguy cơ chiến tranh vẫn còn tồn tại ngày nào mà những cơ chế quân đội vẫn còn, ở phe này cũng như phe kia. Thế nên, cần phải dẹp bỏ quân đội, từ từ thôi. Dĩ nhiên, bắt đầu là giải giới nguyên tử, tiếp theo loại bỏ khí giới hóa học và vũ khí vi trùng, cuối cùng dẹp luôn vũ khí thông thường. Trước hết cần có sự bảo đảm quốc tế cho công cuộc giải giới này, nó cũng kiểm soát việc mua bán vũ khí, mà một số người đại diện là kẻ bất lương. Để giám sát việc giải giới này, có thể đưa vào những lực lượng nho nhỏ giống như một loại cảnh sát quốc tế. Liên Hiệp Quốc đã tham gia rất nhiều trong hành động quân sự để giải phóng; chúng ta có thể một lực lượng đa phương hay quốc tế giám sát một nước đã hoàn toàn giải giới, ý chính tôi muốn đưa ra, là những lực lượng tập thể này sẽ hoạt động như những lực lượng bảo vệ trị an. Lúc ấy mọi người sẽ thành Bồ tátm, chẳng cần vũ trang gì nữa! Nhưng tôi chắc là sẽ khó thực hiện.
Một số người có lẽ không biết giải giới nội tại là gì? Tôi cho rằng căm hận là kẻ thù độc địa nhất. Đó là kẻ thù của sự thanh thản tâm hồn, tình hữu nghị và sự hòa hợp, ba yếu tố then chốt cho một sự phát triển tích cực để thực hiện một thế giới tốt đẹp hơn. Vậy phải tiết giảm hận thù và phát huy đức từ bi, lòng thương cảm. Đó chính là điều mà tôi gọi là giải giới nội tại.

8. Giận và ghét khác nhau thế nào?
Riêng tôi thường phân biệt hai loại tâm lý vẫn đục này như sau. Ghét gắn liền với sự oán hận người khác, không bao giờ có động lực là lòng xót thương. Vậy cần phải hủy diệt nó hoàn toàn. Giận bộc lộ một phản ứng cảm xúc tức thì, mà trong Mật tông, có thể sử dụng được để tu hành. Cũng có khi vì thương mà người ta nổi giận. Ví dụ như để thúc giục kẻ khác phải tiến hành một hành động khẩn trương.

9. Xin Ngài định nghĩa thế nào là một kẻ thù ?
Khi thấy mình giận ai đến tím mặt, thì biết ngay kẻ thù là gì. Chương bàn về lòng khoan dung và sự kiên nhẫn trong Bồ tát hạnh của Shantideva định nghĩa kẻ thù là người hăm dọa mạng sống ta hay bạn hữu ta, của cải ta hay của cải họ v.v… Bạn của kẻ thù được xem như kẻ thù. Trong pháp môn chuyển hóa tư tưởng (Tạng ngữ Iodjong) có mục quan sát tính bình đẳng giữa mình và người, dẫn đến ý niệm không còn thù hay bạn. Không phải phủ nhận sự hiện hữu của họ: kẻ thù và bạn vẫn còn đó; đúng hơn, sự tu tập này cho thấy không có lý do nào để giận những kẻ xem mình là thù, hay quyến luyến một số người vì họ là bạn hay bà con ta, nhưng từ một góc độ khác nhau, có thề xem kẻ ấy là bạn, vì đã cho ta cơ hội để tập tính nhẫn nhục, khoan dung. Nếu nhìn ở khía cạnh này thì anh ta không còn là kẻ thù nữa, mà thật hữu ích và có lợi.

10. Một người Tây Tạng giết chết một con trâu để nuôi sống gia đình có hành động tiêu cực không? Câu hỏi cũng đặt ra nhu vậy đối với những người cận vệ, vì để bảo vệ tính mạng cho Ngài, phải biết giết người?
Chúng ta phải biết hiểu những trường hợp này như thế nào? Dĩ nhiên đây là những hành động tiêu cực. Cường độ tạo nghiệp của mỗi hành động tùy thuộc vào nhiều yếu tố như ý định thúc đẩy hành động, ngay chính hành động và suy nghĩ tiếp theo sau hành động.

11. Trong lúc theo giáo lý nhà Phật, làm sao sống trong nhũng biến cố tàn bạo như chiến tranh ?
Điều quan trọng hơn hết phải tránh chém giết: tự cho mình có quyền cướp mạng sống của ai là một điều dứt khoát không bao giờ chúng ta được nghĩ đến.

12. Không bám víu khác với thờ ơ lãnh đạm như thế nào?
Rất khác: lãnh đạm là hoàn toàn không quan tâm đến đối tượng đang đề cập, trong khi không bám víu hàm ý còn có một liên hệ.
Để sáng tỏ ý tôi nói, hãy xét sự bám víu là gì? Nó có hai loại: loại thứ nhất cần từ bỏ, đó là khi sự bát víu phát sinh do tâm trí bị khuấy động vì nỗi thèm muốn hay do bất kỳ động cơ tâm lý tiêu cực, loại thứ hai là tình cảm hướng đến những đối tượng đáng thương khuynh hướng này không xuất phát từ những xúc động tiêu cực thì phải được đào sâu và tăng trưởng.
Khi quán tưởng tính Không (vacuité) chúng ta được thúc đẩy phải nới rộng sự bám giữ sai lạc các hiện tượng và sự cố, tưởng rằng chúng có một sự hiện hữu chắc chắn, biệt lập. Buông thả sự bám giữ sai lầm đều thiết yếu, nhưng vẫn phải có ý thức phân biệt cái gì phải vun trồng cái gì nên từ bỏ, và cố gắng phát huy tiềm năng của những đức tính lành mạnh và tích cực đồng thời dẹp bỏ sức mạnh của những khuynh hướng tiêu cực và độc hại. Khả năng phân biệt của ta vẫn còn nguyên vẹn. Trong cùng chiều hướng suy nghĩ đó. Bồ tát phải hủy tận gốc sự kiêu ngạo, tự hào, Tính khiêm cung tự nhiên đặt vị ấy ở sau mọi người. Tuy nhiên, điều này không thể ảnh hưởng đến niềm tin vô song và lòng can đảm tuyệt vời của Bồ tát khi dấn thân giải thoát chúng sinh khỏi khổ ách. Gương từ bi rộng lớn không lẫn bám víu tiêu cực nào, chứng tỏ rằng trọng hạnh phúc người khác hơn hạnh phúc riêng
Chính nhờ trí tuệ và sự tu tâm luyện tính trong trong phương tiện khéo léo cũng như khả năng sáng tạo của tâm hồn điều cần thiết mà ta có thể thấy sự khác biệt rất vi tế giữa yếu tố nuôi dưỡng bản ngã, tức sự bám víu, và những đức tính tích cực lợi tha. Chỉ có sự kết hợp phương tiện và trí tuệ mới phân biệt đúng được. Tôi thường nói rằng nhắc đến cái "tôi" đương hàm một ý thức mạnh mẽ về tự ngã. Một trong những hình thức biểu lộ bản ngã là không cần để ý đến kẻ khác, không đếm xỉa đến hạnh phúc của họ, thậm chí có thể vì tư lợi mà khai thác bất kỳ điều gì làm cho mình sung sướng. Thái độ tâm lý là rất tiêu cực cần phải đánh đổ. Ngược lại một khía cạnh khác của cái "tôi" có thể biểu thị bằng lòng tự tin rộng lớn, khiến ta có thể nói: "Mình có thể hoàn tất điều này điều nọ. Mình có thể làm việc cho mọi người được sung sướng. Mình sẽ đạt đến toàn giác (eveil parfait) để làm lợi cho chúng sinh”. Cảm thức ấy thì đừng dẹp bỏ mà ngược lại, phát huy nó, tăng cường nó! Trên con đường tu tập, tâm trí ta bề ngoài vẫn thảnh thơi, thoải mái, nhưng tự thẳm sâu trong tâm hồn phải thật minh mẩn tỉnh giác, luôn sử dụng một cách sáng suốt sự phản tỉnh và chú tâm.

Nguyễn Thị Phương Thanh dịch (Lược theo Au de là des dogmes)
Nguồn: Văn Hóa Phật Giáo – Số 48

Sunday, July 1, 2012

LÀM THẾ NÀO ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI BÌNH ĐẲNG

LÀM THẾ NÀO ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI BÌNH ĐẲNG

Qua bài viết trước đây của tôi, “Bình đẳng – lý tưởng chung của mọi xã hội”, chúng ta đã biết được bình đẳng là mơ ước và mục tiêu chung của mọi xã hội. Qua đó, ta cũng thấy rằng bình đẳng chính là thước đo trình độ văn minh và tiến bộ của một đất nước, một xã hội. Về nghĩa đen, bình đẳng có nghĩa là ngang bằng, còn về nghĩa mở rộng, bình đẳng là lý tưởng xem mọi người đều có giá trị như nhau bất kể sự khác biệt về màu da, sắc tộc, nguồn gốc, tôn giáo, địa vị, sở hữu… Chính nhờ lý tưởng này mà chúng ta thấy rằng mọi người sinh ra trên trái đất này cần được hưởng những quyền lợi và cơ hội thăng tiến như nhau trong xã hội (quyền được mưu cầu hạnh phúc). Tuy vậy, nhìn vào thế giới ngày nay, ta thấy rằng vẫn còn nhiều nước mà lý tưởng này vẫn chưa hiện thực được, người dân ở đó vẫn còn phải chịu nhiều oan khuất, bất công. Tại sao việc xây dựng một xã hội bình đẳng lại quá khó khăn? Phải chăng có sự khác biệt lớn giữa nhận thức và hành động của chúng ta? Vấn đề đặt ra là làm sao để xây dựng một cơ chế để đảm bảo sự bình đẳng giữa mọi người.

Đầu tiên, chúng ta cần tìm hiểu nguồn gốc của sự bất bình đẳng. Nhìn vào hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội, ta thấy nguyên nhân nằm ở ý thức của những người sống trong xã hội đó. Chẳng hạn, có những nhóm người tự cho mình ở vị trí cao hơn kẻ khác và, vì vậy (theo họ nghĩ) đương nhiên họ được hưởng những quyền lợi cao hơn kẻ khác. Ví dụ: ở xã hội chiếm hữu nô lệ, người chủ nô nghĩ rằng họ có vị trí cao hơn những người nô lệ, cho nên họ thiết lập những điều luật để đảm bảo quyền lợi của mình bằng cách bóc lột và hạn chế quyền tự do của nô lệ; ở xã hội phong kiến, vua được cho là có vị trí cao nhất trong xã hội, vì vậy những quy định trong xã hội đó nhằm đảm bảo quyền lợi tối thượng của vua, và người dân ở vị trí thấp nhất phải tuân thủ những quy định do vua đặt ra cho dù quy định đó có bất công đến đâu. Ta thấy rằng, sự phát triển của xã hội loài người đi cùng với sự thay đổi nhận thức của họ, theo hướng loại bỏ dần những hiện tượng bất bình đẳng này. Chính nhận thức của con người là nguyên nhân căn bản khiến họ chấp nhận những hiện tượng bất công trong xã hội. Vì vậy, ngày nay nhận thức của chúng ta mở rộng, những kiểu đối xử kỳ thị giữa chủ nô và nô lệ, hay kiểu quan hệ “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” giữa vua-tôi trong thời phong kiến không còn đất tồn tại nữa. Chính vì vậy, vấn đề căn bản để xây dựng xã hội bình đẳng là nuôi dưỡng ý thức yêu chuộng sự công bằng ở mọi người dân, và xây dựng thiết chế xã hội để đảm bảo quyền bình đẳng và cơ hội phát triển như nhau giữa mọi người trong xã hội.

Trong quá khứ, chúng ta thấy có nhiều chủ thuyết đưa ra nhằm xây dựng một xã hội bình đẳng, trong đó gần đây nhất có chủ thuyết về đấu tranh giai cấp. Chủ thuyết này cho rằng trong xã hội luôn tồn tại 2 giai cấp là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, từ đó dẫn đến những vấn đề bất bình đẳng giữa 2 giai cấp đó, giải pháp cho vấn đề là dùng đấu tranh cách mạng để lật đổ giai cấp thống trị và xây dựng một xã hội đại đồng không còn giai cấp nữa. Nhưng thật tế cho thấy rằng giải pháp này gặp thất bại vì không thể xây dựng được 1 xã hội không giai cấp. Bởi vậy, sau khi lật đổ giai cấp thống trị, họ vẫn không thể xóa bỏ ranh giới giai cấp, mà lại xây dựng nên 1 giai cấp thống trị mới, và như thế vòng luẩn quẩn của đấu tranh giai cấp sẽ không bao giờ chấm dứt. Vì vậy, ta cần phải chấp nhận một thực tế, đó là xã hội loài người luôn đa dạng, gồm nhiều thành phần, giai cấp khác nhau. Vấn đề chính trong việc xây dựng xã hội bình đẳng là làm sao để mọi người có thể chung sống hòa bình, an lạc và tôn trọng lẫn nhau. Muốn được như vậy, ta cần phải bắt đầu từ việc thay đổi nhận thức của mỗi người trong xã hội, sao cho ai cũng biết yêu chuộng sự công bằng, biết nhìn mọi người bằng con mắt bình đẳng, biết hành xử và tôn trọng quy tắc bình đẳng này để có thể sống chung an lạc với mọi người xung quanh. Ngoài ra, ta cũng cần những luật định để nghiêm phạt những ai vi phạm và áp dụng hình phạt một cách đồng đều. Hơn nữa, ta cũng cần những người lãnh đạo gương mẫu, đi tiên phong trong việc xây dựng xã hội bình đẳng.

Nhìn vào lịch sử, ta thấy việc thay đổi ý thức xã hội và xây dựng cơ chế cho 1 xã hội bình đẳng phát triển là có thể thực hiện được, chỉ cần sự quyết tâm và tài lãnh đạo. Cách đây hơn 2 thiên niên kỷ, ở xứ sở Ấn Độ đầy ý thức phân biệt giai cấp, chính Đức Phật Thích Ca là người đầu tiên đã tuyên bố 1 cách rõ ràng và mạnh mẽ về lý tưởng bình đẳng này qua phát biểu “Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn, dòng máu cùng đỏ”. Lý tưởng này đến nay ngày càng chứng tỏ giá trị của nó trong một xã hội hiện đại. Để hiện thực lý tưởng đó, Đức Phật đã bắt đầu từ việc chuyển đổi ý thức của các đệ tử, bằng việc giảng dạy và huân tập ý thức về “Vô Ngã, Vị Tha”, luôn tôn trọng sự sống của mọi người, mọi loài. Bắt đầu từ việc thay đổi nhận thức sai lầm về mối quan hệ giữa mình và người để có được chánh kiến về sự bình đẳng, đi dần đến việc mở rộng lòng yêu thương để có thể cảm thông, chia sẻ nỗi khổ của người khác. Từ đó, làm cơ sở để phát triển một cộng đồng tu học đầy tình yêu thương, nhân ái và bình đẳng. Không những bằng lời giảng, mà chính trong hành động của Ngài cũng thể hiện lý tưởng đó, như nhận vào giáo đoàn tất cả mọi người từ đủ mọi giai cấp, ngành nghề. Đây có thể được xem là kiểu mẫu để xây dựng 1 xã hội bình đẳng trong tương lai.

Nhìn vào hiện trạng nước ta, lý tưởng bình đẳng đã được thực hiện tới đâu? Liệu người dân có hưởng được quyền và lợi ích bình đẳng trước pháp luật như hiến pháp nước ta vẫn thừa nhận? Nhìn chung, mức độ bình đẳng ở nước ta còn thấp và mới dừng nhiều ở lý thuyết mà chưa đi vào thực tiễn cuộc sống. Có thể kể ra 1 số điển hình của bất bình đẳng như: giữa nông thôn & thành thị, giữa đảng viên & người ngoài đảng, chính quyền & nhân dân, người giàu & người nghèo… Dựa vào các nghiên cứu kinh tế gần đây, một hiện tượng nổi bật ở nước ta là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, kéo theo nó là sự bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo. Trong khi người giàu được tự do chọn lựa các dịch vụ giáo dục, y tế, giải trí… thì người nghèo chỉ có thể tiếp cận những dịch vụ giáo dục, y tế rẻ tiền nhất (và nếu không có tiền thì bị loại ra khỏi hệ thống). Ngoài ra, một hiện tượng bất bình đẳng cũng đang gia tăng là giữa công chức nhà nước và dân thường trong việc tiếp cận thông tin và việc bào chữa. Khi đối diện với cùng 1 tội trạng thì công chức nhà nước thường được xử nhẹ, còn dân thường thì phải chịu án nặng (vd. công an đánh dân & dân đánh công an). Một hiện tượng cũng được nói tới nhiều trong những năm vừa qua là sự bất bình đẳng giữa công nhân và chủ nước ngoài (thể hiện ở tỷ lệ gia tăng số cuộc đình công ở các khu công nghiệp). Trong khi việc đình công thường bị xem là bất hợp pháp và đầy rủi ro đối với công nhân, thì các chủ tư bản nước ngoài vẫn được các chính quyền địa phương chào đón và tạo nhiều thuận lợi. Đặc biệt nghiêm trọng là sự liên kết giữa chủ dự án đầu tư nước ngoài với chính quyền địa phương trong việc cưỡng chế đất đai của nông dân, dẫn tới tỷ lệ gia tăng của số lượng dân oan và những khiếu kiện dai dẳng liên quan đến đất đai vì mâu thuẫn quyền lợi giữa một bên là người nông dân mất đất và bên kia là chủ đầu tư + chính quyền. Tất cả các hiện tượng trên, cho thấy đã đến lúc chúng ta phải hành động để thay đổi hiện trạng xã hội, theo hướng bình đẳng hơn, giảm bớt bất công, để có thể mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân như mục tiêu xưa giờ của mọi lực lượng lãnh đạo đất nước.

Như vậy, để thay đổi hiện trạng xã hội theo hướng bình đẳng hơn, ta cần phải tập trung vào 2 nhóm giải pháp chính: (1) giáo dục ý thức yêu chuộng sự công bằng ở mọi người dân, bắt đầu từ giáo dục ở cấp tiểu học; (2) sửa đổi hiến pháp và pháp luật sao cho phản ánh được tiếng nói của mọi thành phần trong xã hội, đảm bảo sự giám sát chéo, hạn chế sự lạm quyền, cho phép sự chỉnh sửa hệ thống theo hướng tiến bộ hơn. Ngoài ra, chúng ta cũng cần 1 nhà lãnh đạo biết yêu chuộng sự công bằng, có tài lãnh đạo và quyết tâm thay đổi xã hội theo hướng tiến bộ hơn, công bằng hơn.

Liên quan đến giải pháp (1), chúng ta cần sửa đổi chương trình và phương pháp giảng dạy để giúp các em học sinh có ý thức yêu chuộng sự công bằng. Không những bằng bài giảng, mà phải áp dụng trong các công việc cụ thể, như: biết xếp hàng chờ đến lượt mình, biết dừng đèn đỏ, có quy định phạt đối với những em vi phạm tính công bằng, như chen ngang, vượt đèn đỏ… Phụ huynh cũng phải góp phần vào công tác giáo dục này, bằng cách không chạy trường, chạy điểm, cho con em học thêm… Muốn giáo dục các em về sự công bằng, chính thầy cô, nhà trường, và phụ huynh phải là những tấm gương tôn trọng nề nếp, kỷ luật chung, không vì lợi mình mà vi phạm tới lợi ích của người khác. Liên quan đến giải pháp (2), chúng ta cần xây dựng một xã hội pháp trị, trong đó cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp có vai trò giám sát lẫn nhau, đồng thời có sự giám sát của người dân thông qua các cơ quan thông tấn, báo chí độc lập. Trước mắt, cần xây dựng được một quốc hội đúng nghĩa, gồm những người đại diện xứng đáng của dân, có tâm, có tầm là bước cơ bản để thay đổi các thiết chế sai lầm hiện tại, đề ra các quy định hợp lý, đảm bảo quyền lợi của mọi người dân, hạn chế sự lạm quyền của cơ quan hành pháp. Từ đó, làm cơ sở để xây dựng 1 hệ thống pháp luật vững mạnh, phù hợp với thông lệ quốc tế, nêu cao tính gương mẫu của pháp luật, công bằng với mọi đối tượng, có chiếu cố đến những đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội. Bằng việc thực hiện 2 nhóm giải pháp trên, cùng với thời gian, ta sẽ chọn ra được những người lãnh đạo có tài có tâm để dẫn dắt công cuộc thay đổi xã hội thật sự hướng về mục tiêu Công bằng, Dân chủ, Văn minh. Đó là mơ ước của tôi về một nước Việt Nam bình đẳng, phú cường. Hy vọng rằng ước mơ này sẽ trở thành hiện thực trong 1 ngày không xa.

Sài Gòn, 7/2012
TS. Phạm Quốc Trung

Friday, June 1, 2012

Thơ cho con


Thơ cho con
(Tặng con trai nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6/2012)

Bố viết cho con những dòng thơ
Thương con chan chứa đến vô bờ
Mong con khôn lớn ra giúp nước
Nối chí cha ông, dệt ước mơ...

Bố mong con lớn sẽ thông minh
Minh Trí, mà luôn giữ vẹn tình
Trí sáng và lòng càng phải sáng
Mới giúp được đời, độ chúng sinh

Quê hương còn lắm nỗi nhiễu nhương
Biển Đông sóng dậy, lắm tai ương
Văn hóa điêu tàn, ôi đảo ngược
Niềm tin đánh mất, chỗ nào nương?

Mai sau con lớn học thành tài
Tung hoành đây đó, thỏa chí trai
Này đây gươm báu, đây sách ước
Bố đã trao con, tự thuở này...

Mong con khôn lớn thật là mau
Xây dựng quê hương thật đẹp giàu
Nước nhà toàn vẹn, cùng vui sống
Tự hào nước Việt mãi vươn cao...

Saturday, May 19, 2012

My son's photos

Tên bé: Phạm Minh Trí
Ngày sinh: 5-5-2012
Giờ sinh: 7:25 sáng
Cân nặng: 3,4 kg

Tuesday, May 1, 2012

Trang tron thang tu


Trăng tròn tháng tư  
Sáng tác: Chúc Linh

Từ vườn Lâm Tỳ Ni, đấng Thế Tôn đản sanh
Hoa vô ưu tươi nở ngát hương thơm mười phương
Thành Ca Tỳ La Vệ gió reo vui trời bừng sáng
Người người hân hoan loan tin vui
Tất Đạt Đa thái tử ra đời.

Ánh sáng Như Lai, diệt tham sân si, sáng soi đạo vàng.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư chúng con xin lạy người.

Đạo vàng hương Từ Bi đem đến cho mọi người
Xóa tan đi ưu phiền sống vui trong lục hòa
Lòng con nguyện tinh tấn quyết đi theo đường chân lý
Dù gặp bao nguy nan oan khiên,
Vững lòng tin dưới bóng cha lành.

Tiếng chuông ngân vang, thành tâm chúng con, cúi xin lạy người.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư chúng con xin quỳ kính.

Tuesday, April 24, 2012

Nhặt cánh Vô ưu


Nhặt cánh Vô ưu

Viên Trí
Ân Độ! Từ ngàn xưa, Ấn Độ đã là thánh địa đối với người con Phật. Chính từ vùng đất lịch sử này mà những danh tăng Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... đã trở thành bất tử đối với Phật giáo Trung Hoa sau những chuyến du hành vĩ đại. Dĩ nhiên, hai chữ “Ấn Độ” này vẫn luôn là mộng ước của giới Phật giáo mười phương. Rồi như lời Phật dạy, “nghiệp là hành động có tác ý”.
“Tây du” thời nay không còn phải trèo đèo vượt núi, không kinh qua những sa mạc ngập tràn tử khí, hoặc giông tố bão bùng của đại dương mênh mông luôn đe dọa sinh mạng của kẻ hải hành. Hành hương hôm nay chỉ cần vài tiếng đồng hồ yên ngủ trên những con đại bàng sắt đầy đủ mọi tiện nghi như thượng khách của nàng công chúa trong lâu đài vàng là đã đặt chân đến Phật địa. Phải chăng do sự văn minh của thế giới vật chất ngày nay, với sự bùng nổ của thời đại thông tin, và với chiếc đũa thần vạn năng của khoa học mà Ấn Độ như đang hiện diện trong tầm mắt của mọi người đã làm cho những chuyến hành hương Phật tích đã giảm đi phần ý nghĩa của nó. Đấy là sự thật, trong một giới hạn nào đó của ý tưởng.

Nhưng kìa, những dấu chân của Đấng Giác Ngộ như còn in dấu đâu đây thôi thúc lòng kính tín của người con Phật mười phương: “Này A Nan, những ai trong khi chiêm bái những thánh tích (Lumbini, Sarnath, Bodhgaya và Kusinaga) này mà từ trần với tâm thâm tín, hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sinh cõi thiện thú, thiên giới”. Và những di sản vô giá này đang mãi là những chứng nhân hùng hồn về một Đức Phật lịch sử đối với giới Phật tử luôn mong tìm dấu vết Đức Bổn Sư. Ấn Độ quả đáng tự hào, vì đã được cưu mang một Đấng Đại Giác để hơn 2500 năm sau những vết mòn của Ngài đã trở thành bảo vật của thế giới, và luôn ngập đầy ngôn ngữ từ muôn phương.

Đường vào Lâm Tỳ Ni ngày nay không còn thơ mộng như thuở hồng hoang, lúc mà hoàng  hậu Ma Da trên đường trở về cố quốc Thiện Giác từ Ca Tỳ La Vệ để hiến dâng cho cuộc đời một Thánh nhân vĩ đại mà bà đã có diễm phúc thai mang. Lâm Tỳ Ni bây giờ không còn là rừng cây Vô ưu (Asoka) bạt ngàn đầy bóng mát, và luôn trổi lên những khúc nhạc thanh bình của chim chóc, muôn hoa, nơi mà đã khiến người mẹ hạnh phúc nhất trần thế, trong một khoảnh khác thư thái thân tâm, với tay hái đóa Vô ưu ngàn năm hé nở một lần rồi hạ sanh hoàng tử. Và dường như rằng Lâm Tỳ Ni hôm nay cũng đang giảm dần tính thiêng liêng và huyền diệu của nó khi có quá nhiều dục vọng của con người phủ đầy lên đó với vô vàn khẩu hiệu của phàm nhân. Sau hơn 25 thế kỷ hứng chịu quy luật vô thường, Lâm Tỳ Ni hôm nay chỉ còn sót lại một số di tích đang được bảo bọc bởi những lớp tường thành chùa tháp với đủ hình thái kiến trúc Phật giáo từ nhiều quốc gia, một nỗ lực chung của những người con Phật nhằm bảo vệ dấu tích của Đấng Đạo Sư trước sự tàn phá của thời gian và lòng người đầy trắc ẩn. Lịch sử ghi lại rằng vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, A Dục vương từng ngự giá đến đây để chiêm ngưỡng Thánh tích, và với lòng quy kính, một trụ đá được sai dựng tại chốn này để đánh dấu nơi ra đời của bậc Thượng  nhân, rồi theo năm tháng, trụ đá ấy vẫn đang tồn tại để ấn chứng cho sự kiện lịch sử này. Cũng trong chuyến hành hương này, nhà vua đã ân giảm thuế má cho cư dân tại Lâm Tỳ Ni vì “Đức Từ Phụ đã hạ sinh tại đây”.

Nhưng theo thời gian, vết tích như mờ dần trong tâm hồn Ấn Độ đến nỗi người ta tự hỏi rằng ngày nay có bao nhiêu phần trăm dân số nước này đang hướng theo dấu chân Đức Phật! Đâu rồi ánh đạo huy hoàng và những trang sử đầy tính nhân văn tỏa ra từ giáo đoàn Phật giáo ngay trên vùng đất sản sinh trí tuệ siêu việt này! Đành rằng niềm tin chỉ là bước dẫn khởi trên lộ trình thực nghiệm tâm linh, nhưng người ta không thể vượt qua khổ ải nếu thiếu mất niềm tin. Cũng vì vậy, cuộc hành hương Phật tích của người con Phật được đánh dấu như bước đường thực nghiệm tâm linh, trong đó niềm tịnh tín được hiển lộ. Rồi như một hệ quả của sự thực hành lời Phật dạy, hương vị an lạc, giải thoát đến một cách tự nhiên qua tiến trình tâm lý: tín - tầm tư - tâm hân hoan - hỷ sanh - tâm an tịnh - lạc sanh - tâm định tĩnh - giải thoát sanh. Thật khó để diễn tả một trạng thái tâm linh vốn chỉ dành cho những ai tự thân thực nghiệm, nhưng có phải chăng một bước đường như vậy, bước đường chiêm bái Phật tích đúng như lời Phật dạy, đã minh chứng sinh động ý nghĩa hành hương?

Trăng thượng tuần đã ló dạng. Thấp thoáng một vài áng mây. Cả thế nhân đang quy ngưỡng về Lâm Tỳ Ni để chiêm ngưỡng hoa Ưu đàm hé nụ. Ngày ấy trăng rằm sáng lắm, những đám mây che mờ dương thế sẽ bay đi.

“Ai dùng các hạnh lành
Làm xóa mờ nghiệp ác
Chói sáng cõi đời này
Như trăng thoát mây che”.

Hoa Ưu đàm nở, hoa Ưu đàm rụng nhưng hương còn mãi. Hạnh phúc thay cho ai được một lần trở về nhặt cánh Vô ưu!

Tuần báo Giác Ngộ, số Phật đản PL. 2546

Sunday, April 8, 2012

Giới thiệu phần mềm ADONIS để mô hình hóa quy trình kinh doanh


Giới thiệu phần mềm ADONIS để mô hình hóa quy trình kinh doanh

Tôi được biết đến phần mềm ADONIS này cách đây 3 năm, khi tham dự 1 hội thảo về Quản lý Tri thức ở ĐH. Vienna, Áo. Đây là phần mềm được phát triển bởi Bộ môn Công nghệ Tri thức (1 nhánh của khoa CNTT) của ĐH. Vienna. Phiên bản dùng cho giáo dục và hướng dẫn sử dụng của phần mềm này có thể được tải về miễn phí từ trang web sau http://www.adonis-community.com/

Mục tiêu của phần mềm là hỗ trợ 1 bộ công cụ giúp các doanh nghiệp mô hình hóa quy trình kinh doanh của mình (business process modelling). Nhìn bề ngoài, nó cũng tương tự như các phần mềm BPM khác, như: MS. Visio, Power Designer, Rational Rose... Tuy nhiên, ADONIS còn đi xa hơn các phần mềm trên nhờ khả năng phân tích mô hình và mô phỏng kết quả nhằm giúp cho việc tối ưu hóa mô hình đã có. Chằng hạn như, sau khi mô hình hóa, ADONIS còn cho phép người dùng đưa vào mô hình các thông số định lượng về thời gian xử lý của mỗi công đoạn, và sử dụng công cụ phân tích mô hình đính kèm với bộ phần mềm để có thể mô phỏng và đánh giá tính hiệu quả của mô hình. Trên cơ sở kết quả phân tích, người sử dụng có thể tái thiết kế lại quy trình kinh doanh theo hướng giảm thiểu chi phí và tối ưu hóa hiệu quả vận hành. Ngoài ra, nó cũng hỗ trợ các tính năng khác như: liên kết mô hình, thêm các chú thích vào mô hình (notation), nhập & xuất mô hình qua lại giữa các công cụ BPM phổ biến.

Xét về khả năng ứng dụng thực tế, đây là 1 phần mềm khá mạnh mẽ trong việc giúp các doanh nghiệp hiểu được quy trình kinh doanh hiện tại ở đơn vị mình, từ đó có kế hoạch chuẩn hóa quy trình kinh doanh và đề xuất các quy trình cải tiến. Trong bối cảnh Việt Nam, hiện nay các doanh nghiệp quy mô nhỏ chiếm đa số (hơn 90% tổng số doanh nghiệp), trong đó đa phần là chưa có các quy trình kinh doanh chuẩn hóa, mô hình quản lý còn theo phong cách tùy tiện, kiểu gia đình... Chính vì vậy, khi hội nhập với cuộc cạnh tranh toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhanh chóng chuẩn hóa các quy trình kinh doanh của mình nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh. Hơn nữa, việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của các tổ chức ngày càng trở nên 1 nhu cầu bức thiết để đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của các doanh nghiệp, mà trong đó yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của việc ứng dụng HTTT hiện đại là 1 quy trình kinh doanh minh bạch, rõ ràng và hiệu quả.

Theo thống kê của các đơn vị tư vấn triển khai các dự án ERP, nguyên nhân lớn nhất cho việc thất bại khi triển khai dự án ERP ở các DNVN là do thiếu 1 quy trình kinh doanh chuẩn hóa. Chính vì vậy, đa phần các đơn vị tư vấn đều khuyến khích các DN triển khai ERP nên tiến hành chuẩn hóa quy trình kinh doanh trước khi (hoặc song song với) triển khai hệ thống ERP để đảm bảo sự thành công của dự án. Vì vậy, việc tìm hiểu và ứng dụng phần mềm mô hình hóa và phân tích quy trình kinh doanh như ADONIS là rất quan trọng đối với các DNVN có ý định triển khai các dự án tin học hóa hay các HTTT hiện đại như ERP, SCM, CRM...

Ở mức độ vĩ mô, nước ta đang ở một bước chuyển đổi trong việc định hướng mô hình phát triển kinh tế của đất nước. Nhà nước đang kêu gọi tái cấu trúc khối doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng và các hoạt động đầu tư công. Việc ứng dụng 1 giải pháp CNTT như sử dụng phần mềm ADONIS, cũng có thể giúp các nhà hoạch định chính sách phần nào thấy được bức tranh tổng thể của các quy trình, thủ tục, cơ chế hiện tại, từ đó, phân tích bằng các công cụ định lượng, mô phỏng lời giải và tìm ra được phương án tốt nhất cho việc tái cấu trúc nền kinh tế. Đó là kỳ vọng lớn hơn mà cách tiếp cận này hy vọng có thể đóng góp cho quá trình tìm ra 1 mô hình hoạt động tốt hơn cho nền kinh tế quốc gia. Từ đó, góp phần đưa đất nước vượt qua những khó khăn hiện tại và mở ra 1 lộ trình phát triển mới bền vững hơn và nhanh chóng hơn.

SG, tháng 4/2012
Phạm Quốc Trung, PhD.

Monday, March 26, 2012

MÙA TRĂNG



MÙA TRĂNG


PHẠM-TRƯỜNG-LINH
(Kính tặng thầy và anh em trong đêm giỗ tổ).

Trăng thứ nhất ta về đây giỗ tổ
Giữa vườn thầy thơm ngát hương hoa đêm,
Ta thấy trong hồn thẳm của anh em,
Một khát vọng vô cùng vô tận.

Nỗi thao thức đau hơn niềm uất hận,
Rất lung linh huyền ảo khó nên lời
Ta hiểu nhau đến tận đáy lòng người
Khi đèn tắt trăng mờ đêm tịch mịch.

Trăng thứ hai rặng cây xanh bờ liễu
Lối nghìn trùng miên miết đuổi theo ai
Trong sương khuya rớt rớt hột mưa dài
Ta đã thấy một chân trời viễn mộng

Con thưa thầy, giữa đường đời gió lộng
Đêm hôm nay xin đứng dậy làm người
Đêm Lam Sơn rừng núi đang gọi mời
Gió lồng lộng thổi qua hồn quá khứ,

Thưa cha mẹ, đây bắt đầu trang sử
Một mùa trăng kết tự mấy mùa trăng
Đây núi sông bàng bạc bốn nghìn năm
Đang trỗi dậy trong hồn người Bách Việt.

Hoa tư tưởng giữa trời xuân băng tuyết
Đóa tinh anh máu huyết tạo nên hình
Có nghe sông núi chuyển mình
Như hơi thở lúc tự tình nước non.

Wednesday, March 21, 2012

My trip to Kyoto - 14-18/3/2012

Some photos of my trip to Kyoto to attend a Research Collaboration Project at Kyoto University (from Mar 14 to Mar 18, 2012)

Tuesday, February 28, 2012

Cửa Tùng Đôi Cánh Gài

Cửa Tùng Đôi Cánh Gài

Hòa Thượng Nhất Hạnh

--- o0o ---

Khi chàng dũng sĩ về đến chân núi thì trăng cũng vừa lên. Trăng mười chín soi sáng cảnh núi rừng cô tịch. Ánh trăng nhấp nháy đùa giỡn trên lá câỵ Đêm thu mát lạnh. Cảnh vật hình như không có gì đổi thay sau bảy năm xa cách. Cảnh vật tuy không xa lạ, nhưng cũng không thân mật chào đón người cũ từ phương lạ trở về. Chàng dũng sĩ dừng lại ở chân núi, nhìn lên.

Trước mặt chàng, con đường mòn lên núi đã bị đôi cánh cửa tùng khép chặt. Chàng đưa tay cố đẩỵ Nhưng hai cánh cửa kiên cố vẫn im lìm không lay chuyển dưới sức mạnh của đôi cánh tay chàng. Chàng lấy làm lạ. Ngày xưa chẳng bao giờ sư phụ chàng lại cho đóng chặt cửa lên núi như thế nàỵ Chỉ có một con đường đưa tới am sư phụ mà thôi, nhưng bây giờ lại bị đóng chặt.. Hớn hở chàng vỗ tay vào đốc kiếm, phi thân nhảy quạ Nhưng chàng không nhảy qua khỏị Một mãnh lực gì níu lấy thân chàng trở lại, khiến chàng không cất mình lên khỏi hai cánh cửa tùng. Chàng rút gươm định chém rời cánh cửạ Nhưng khi chạm tới cánh cửa, lưỡi gươm văng trở lại như vừa chạm vào thép cứng. Chàng chùn tay, đưa lưỡi gươm lên nhìn. Lưỡi thép sáng loáng dưới ánh trăng. Cánh cửa tùng rắn quá, và hình như đã thu nhận thần lực của sư phụ chàng, nên đã đóng kín đường mòn lại một cách hết sức vững chãi Chàng thở dài cho gươm vào vỏ rồi ngồi phịch xuống tấm đá lớn gần bên, ôm đầu nghĩ ngợị Bảy năm về trước, chàng còn nhớ rõ khi chàng xuống núi, sư phụ chàng đã lặng lẽ nhìn chàng một hồi lâu, không nói năng gì. Cái nhìn của Người tuy dịu dàng nhưng có lẫn đôi chút xót thương. Chàng đã cúi đầu im lặng trước đôi mắt dịu hiền và cái nhìn bao dung của sư phụ. Hồi lâu Người mới thong thả bảo chàng:

-"Ta không thể giữ con ở mãi bên tạ Thế nào con cũng phải xuống núi để hành đạo, để cứu người và giúp đờị Ta cho rằng con có thể ở lại cùng ta trong một thời gian nữa trước khi con rời ta xuống núị Nay con đã muốn xuống thì con cứ xuống. Nhưng con ạ, ta mong con nhớ những điều ta dặn khi con đã đi vào cuộc sống đồng sự và lợi hành." Rồi Người cặn kẻ dặn chàng về những điều chàng nên tránh, và về những điều chàng nên làm. Sau hết, Người từ tốn và dịu dàng để tay trên vai chàng:

- "Con phải nhớ những tiêu chuẩn hành động mà ta đã truyền thọ cho con trong năm sáu năm trời học tập. Chớ bao giờ làm một việc gì có thể gây khổ đau cho mình và cho kẻ khác, trong hiện tại cũng như trong tương laị Hãy tiến bước mạnh dạn trên con đường mà con chắc có thể đưa con và mọi người về nơi giác ngộ. Nên nhớ muôn đời những tiêu chuẩn khổ vui và mê ngộ mà hành Đạo, độ Đờị "Thanh bảo kiếm mà ta đã trao cho con, con hãy sử dụng nó để diệt trừ ma chướng. Hãy xem đó như lưỡi gươm trí tuệ nơi tâm con sẽ dùng để hàng phục mê chướng và si vọng. Nhưng để giúp con, ta cho con thêm một bảo bối này để con có thể thành tựu công quả một cách d- dàng."

Người thong thả lấy trong tay áo ra một chiếc kính nhỏ và đưa cho chàng: "Đây là MÊ ngộ cảnh. Tấm kính này sẽ giúp con biết rõ thiện ác, chính, tà. Có người gọi nó là kính chiếu yêu, bởi vì qua tấm kính này, con có thể thấy được nguyên hình của loài yêu quáị"

Chàng nhận bảo kính và cảm động đến nói không nên lờị Tờ mờ sáng hôm sau, chàng lên bái biệt sư phụ xuống núị Người tiển chàng xuống tận dòng Hổ Khê và thầy trò từ biệt nhau trong tiếng suối róc rách chảỵ Sư phụ đặt bàn tay hiền dịu trên vai chàng nhìn thẳng vào cặp mắt chàng. Và nhìn theo chàng dũng sĩ ra đị Người còn dặn theo: "Nhớ không con, nghèo khổ không thay đổi, vũ lực không khuất phục, giàu sang không mờ ám nhé. Ta ở đây đợi ngày con mang đạt nguyện trở về"

Chàng nhớ lại những ngày đầu tiên xuống núi tiếp xúc với cuộc đờị Chàng đã gặp trên con đường hành đạo bao bộ mặt khác nhau của con người, đã dùng bảo kiếm và mê ngộ cảnh của sư phụ chàng một cách có hiệu quả. Chàng còn nhớ có một lần kia, trên con đường hành đạo, chàng gặp một vị đạo sĩ tay cầm phất trần, đi lại gần chàng và mời chàng về động để bàn tính công việc giúp đờị Đạo sĩ tỏ ra rất hăng hái với việc cứu nhân độ thế và giúp ích mọi loàị Ban đầu, chàng say sưa nghe theo lời đạo sĩ.

Nhưng trong lúc tiếp xúc với vị đạo sĩ, chàng nhận thấy người này có vẻ khả nghị Chàng đưa tay rút mê ngộ cảnh ra chiếụ Trước mắt chàng, không phải là một đạo sĩ mà là một con yêu lớn có hai nanh dài, một cặp sừng trên trán và hai con mắt xanh lè đổ lửạ Chàng vội nhảy lui lại và rút bảo kiếm chém. Yêu quái cố sức kháng cự, nhưng cuối cùng, chàng thắng, và yêu quái hiện nguyên hình quỳ dưới chân chàng xin dung toàn tánh mạng. Chàng bằng lòng tha tội nhưng buộc yêu quái phải trân trọng hứa lui về tu luyện để thoát xác thành người mà không được trá hình đạo sĩ để lừa bịp và tìm cách nuốt sống những kẻ khờ dại dễ tin.

Một lần khác, chàng gặp một vị đường quan, rất có dáng dấp một bậc cha mẹ dân. Vị đường quan râu dài bạc phơ, hứa sẽ trọng dụng chàng và đã chịu khó thức suốt một đêm để bàn với chàng về những điều chánh trị ích quốc lợi dân. Vị đường quan đã tỏ ra mình là một người thiết tha đến hạnh phúc muôn dân, nhưng khi đưa mê ngộ cảnh lên, chàng hoảng hốt nhận đó là một con heo khổng lồ với cặp mắt háu đói, thèm khát, vô cùng khủng khiếp. Chàng đứng dậy rút gươm chém. Yêu quái bỏ chạy nhưng chàng đã nhảy ra đứng chận giữa cửa công đường và hét bảo nó hiện nguyên hình. Con heo kinh khiếp hiện hình quỳ dưới chân chàng cầu xin tha tội và hứa sẽ về tu luyện tinh tấn, thoát xác biếng lười, không còn dám trá hình để rúc rỉa xương thịt người dân vô tộị

Có một hôm, đi ngang qua chợ, chàng thấy thiên hạ già trẻ trai gái xúm quanh ngôi hàng sách. Người đang bày bán sách và tranh cho mọi người là một cô gái mặt hoa da phấn, trên miệng luôn luôn sẵn có một nụ cườị Thiên hạ trầm trồ khen ngợi tranh vẽ và thi nhau mua sách. Bên cạnh cô ta lại có một cô gái khác, cũng mặt hoa da phấn, tay ôm đàn, miệng cất tiếng hát khiến mọi người đã mua sách phải mê mẩn tâm thần không muốn ra khỏi cửa hàng. Thật là một cảnh thái bình nên thợ Chàng cũng ngây ngất đứng nghe, và cuối cùng chàng lại gần cầm lên một bức họạ Màu sắc làm chàng choáng ngợp, nhưng qua nội dung chàng thấy thoáng gợn trong tâm linh một ít nghi ngờ. Đưa mê ngộ cảnh lên nhìn, chàng hốt hoảng thấy nguyên hình hai con rắn độc, phun nọc phè phè. Chàng vội gạt mọi người ra, rút bảo kiếm, quát lên: - Nghiệt súc! đừng phun nọc độc hại ngườị Mọi người chạy tán loạn. Hai con rắn độc văng mình tớị Nhưng trước thần lực của lưỡi bảo kiếm, cuối cùng đành phải khoanh tròn dưới gối chàng van xin thứ tộị Chàng dùng bảo kiếm cắt đứt nọc độc, đốt cháy cửa hàng và tha cho yêu súc, buộc cả hai phải hứa trở về núi tu luyện cho thoát kiếp ngậm nọc phun ngườị Cứ thế, chàng đã sử dụng bảo kiếm và mê ngộ cảnh theo đúng lời sư phụ dặn để cứu người và giúp đờị .

Chàng đã sống miệt mài với nhiệm vụ. Đã từ lâu chàng vẫn tự cho rằng chàng là người dũng sĩ cần thiết cho cuộc đờị Cuộc đời không thể vắng bóng chàng. Chàng đã trà trộn trong cuộc sống, có khi thành công, nhưng cũng nhiều khi thất bạị Đối diện với cuộc sống đầy mưu mô gian trá, nhiều lúc chàng phải uốn mình, linh động theo hoàn cảnh để chinh phục và chiến thắng. Có lúc chàng say sưa miệt mài trong công việc. Chàng cảm thấy thích thú khi hành động. Có khi chàng say mê quên cả ăn cả nghỉ, vì một sự theo đuổi mà chàng cảm thấy vì vui thích mà thực hiện hơn là ý thức rằng mình cần hoạt động để mà phụng sự. Thời gian trôi cứ như thế cho đến bảy năm. Một hôm trong lúc ngồi nghỉ bên một dòng sông, nhìn dòng nước lặng lẽ trôi, chàng giật mình thấy đã từ lâu, gần hai năm nay, chàng không dùng đến mê ngộ cảnh. Chàng không dùng, không phải là chàng quên rằng mình có ngộ cảnh, mà chỉ vì chàng thấy không thích dùng. Chàng nhớ lại trước đây đã có một thời chàng dùng mê ngộ cảnh một cách mi-n cưỡng. Chàng nhớ lại những ngày mới xuống núi ấy, chàng đã chiến đấu rất hăng hái khi thấy nguyên hình những yêu quái xuất hiện trên mê ngộ cảnh. Chàng cũng cảm thấy hân hoan vô hạn khi soi thấy trên mê ngộ cảnh hình dáng các bậc hiền nhân. Nhưng trong thời gian trước đây, một cái gì khác lạ đã đến trong tâm hồn chàng, đến lúc nào chàng không nhận rõ. Chàng đã không thiết tha lắm khi nhìn thấy hình bóng một bậc hiền nhân, mà cũng không giận dữ lắm khi thấy một bóng hình yêu quáị Trong bóng hình yêu quái đó, đôi khi chàng lại nhận ra một vài nét hơi quen thuộc,và lưỡi bảo kiếm đã có thờ ơ khi có những bóng hình yêu quái xuất hiện trước kính thần.

Cho đến những ngày gần đây, chàng không dùng mê ngộ cảnh nữạ Chiếc kính vẫn nằm trong túi áo chàng, nhưng đã từ lâu không còn được sử dụng. Chàng lấy làm lạ và đã nói nhiều lần định quay về hỏi sư phụ. Nhưng đã ba tháng qua, bận bịu những gì không đâu, chàng chưa có thể trở về. Mãi cho đến hôm mười hai tháng tám trước đây, đi qua một rừng mai hoa nở, thấy sắc hoa trắng như tuyết lấp lánh dưới ánh trăng thu, nhớ đến những ngày thơ ấu bên rừng mai già học tập dưới chân thầy, chàng mới quyết định trở về. Đường về sao chàng thấy xa quá. Bảy ngày trèo non lặn suối mới về tới được chỗ cũ.

Nhưng đến chân núi thì trời đã tốị Trăng cũng vừa lên và hai cánh cửa tùng cũng đã khép chặt lối mòn. Chàng đành phải đợị Buổi sáng, người sư đệ của chàng thế nào cũng phải xuống suối múc nước, và như vậy sẽ mở cửa cho chàng. Trăng đã lên tới quá đỉnh đầu, ánh trăng vằng vặc chiếu xuống rừng núi âm ụ Trời càng về khuya càng lạnh. Chàng lại rút kiếm ra nhìn. Ánh trăng lại lấp lánh trên lưỡi kiếm. Chàng lại tra kiếm vào vỏ. Trên mặt chàng thoáng nét ưu tư sầu muộn. Chàng đứng dậỵ Trăng sáng quá. Núi rừng vẫn u tịch và lạnh lùng. Chàng ngồi xuống phiến đá chờ đợị Quãng đời bảy năm qua lại trở về trong trí óc chàng. Trăng dần dần về phía núi xạ Ngàn sao lấp lánh linh động hơn, và cuối cùng bắt đầu mờ nhạt. Phương đông đã nhuộm dần ánh sáng mờ mờ.

Đường viền ngọn núi đã nổi dần trên vầng sáng nhạt. Bình minh sắp về. Chàng nghe tiếng lá khô xào xạc trên núị Ngửng lên chàng thấy một bóng người mờ nhạt từ trên đi xuống. Chắc hẳn là người sư đệ của chàng. Trời đang tối quá chàng nhìn không rõ, chỉ thấy hình bóng.

Nhưng chắc chắn đó là người sư đệ, bởi vì tay có cầm tịnh bình. Chàng đứng dậỵ Bóng người tiến xuống và khi đến gần cánh cửa thì cũng vừa nhận ra được chàng dũng sĩ. - "Đại huynh"

- Sư đệ! - Đại huynh về bao giờ thế ? - Ta về lúc trăng mới lên và phải đợi cả đêm dưới nàỵ.. Tại sao sư phụ lại cho đóng bít lối lên như thế ? Người sư đệ mỉm cười đưa nhẹ tay mở cửạ Hai cánh cửa tùng bật ra một cách d- dàng. Bước ra nắm lấy tay chàng và nhìn chàng tận mặt. -"Đại huynh ở một đêm giữa trời chắc lạnh lắm. Sương phủ ướt áo thế này mà, thôi để tiểu đệ phủi bớt chọ Trước kia đệ thường ở dưới núi hái rau nhặt củi và luôn tiện canh chừng người lên núị Lâu lâu mới có một người lên núị Nếu tiểu đệ thấy ai đáng lên hầu sư phụ thì tiểu đệ cho lên, nếu họ không đáng lên thì em lẫn tránh để cho họ lạc đường. Sư huynh biết rằng sư phụ không bao giờ muốn tiếp những người lên núi với tâm niệm không lành. Độ này tiểu đệ bận tập luyện luôn mà sư phụ cũng bận ngồi tĩnh tọa trong thạch động nên người dặn cho đệ khép cửa chắng ngang lối lên dưới nàỵ Sư phụ có trao phép lạ khiến cho cửa tự động mở ra khi các bậc hiền nhân đến. Nhưng khi những kẻ phàm tục lên thì cửa cứ đóng chặt không thể nào vượt qua được. Nhất là khi kẻ ấy có yêu khí thì đừng mong lên núị"

Chàng dũng sĩ cau mày: - "Nhưng không lẽ ta mà lại là yêu quáỉ Sao cửa lại đóng chặt?" Người sư đệ cười lớn: - "Vâng đại huynh sao lại là yêu quái được! Đệ cũng quên đi mất là tại sao cửa lại đóng. Nhưng bây giờ dù sao thì đại huynh cũng lên núi được rồi cơ mà, vì cửa đã mở. Nhưng đại huynh đợi em chút nhé. Để tiểu đệ xuống suối múc nước rồi cùng lên một thể. Hay đại huynh xuống suối với đệ cho vuị Cười lên chứ, đại huynh giận ai mà nét mặt trông khó đăm đăm như vậỷ"

Hai anh em cười vang. Chàng dũng sĩ đi theo người sư đệ xuống suốị Mặt trời vẫn chưa lên, nhưng phương đông đã rạng. Hai người đã có thể nhìn rõ mặt nhaụ Mặt suối lặng trong, in màu hồng của rạng đông. Bóng hai người đứng song song in hình trên mặt suốị Chàng dũng sĩ trong bộ võ phục hiên ngang, lưng đeo trường kiếm. Người sư đệ trong y phục tiểu đồng hòa nhã, tay cầm tịnh bình. Hai người cùng nhìn bóng mình in trên mặt nước mỉm cườị Một con bọ nước nhảy, làm mặt nước hồng gợn nhẹ và bóng hai người rung rung theo làn sóng nước gợn. "Bóng chúng ta trên mặt nước đẹp quá nhỉ! Nếu bây giờ tiểu đệ múc nước thì sóng dậy và bóng tan mất. À này đại huynh "mê ngộ cảnh" sư phụ cho đại huynh còn giữ đó không?" Chàng dũng sĩ cho tay vào túi trả lời:

- Còn đây

- Tại sao chúng ta không đem ra chiếu hình chúng ta xem nào.

Chàng sực nhớ là từ lâu chàng chưa chiếu mê thử trước hình bóng mình. Chàng lấy kính thần ra, lau bụi vào vạt áo, chiếu trên mặt nước. Hai anh em châu đầu vào mặt kính.

Nhưng bỗng cả hai người cùng hét lên một tiếng kinh hoàng, khủng khiếp, và tiếp theo đó chàng dũng sĩ ngã quỵ trên bờ suối bất tỉnh. Tiếng thét kinh khủng làm chấn động cả núi rừng hoang dại . Một con nai đang uống nước phía trên dòng hoảng hốt đưa đầu lên nhìn, ngơ ngác kinh sợ. Người sư đệ vừa trông thấy trong kính thần, hình bóng của mình đứng bên cạnh hình bóng một con yêu to lớn với đôi mắt tối sâu như hai miệng giếng không đáy, hai chiếc răng dài quập sâu vào chiếc càm vuông, trên một khuôn mặt xám ngoẹt như gà cắt tiết.

Người sư đệ rùng mình dụi mắt nhìn lại, trên bờ suối đá xanh, chàng dũng sĩ vẫn nằm ngã lăn bất tỉnh, trên mặt vẫn còn in rõ nét kinh hoàng, đau khổ hiện hình một cách thảm hại trên con người đã từng xông pha lăn lộn bảy năm trong cuộc đời đầy cát bụi.

Người sư đệ đến ôm lấy chàng dũng sĩ và lấy nước suối vã vào mặt chàng. Vài phút sau, chàng tỉnh dậy, nét mặt vô cùng bi thảm. Hình bóng trên mê ngộ cảnh hiện ra bất ngờ quá và ý thức tự giác trong nháy mắt đã làm cho chàng ngả quỵ. Chàng đã mất hết nghị lực, mất hết sự sống. Tứ chi chàng rời rã, chàng không thể đứng dậy được nữạ Một chân quỵ xuống cát, người sư đệ dịu dàng nâng chàng ngồi dậỵ Nét thiểu não và khổ đau còn in rõ trên khuôn mặt chàng. - "Thôi, đại huynh vui lên. Chúng ta sẽ lại lên núị"

Giọng nói của người sư đệ êm như một hơi gió thoảng, nhẹ như một tiếng thì thầm. Nhưng chàng lắc đầu một cách thất vọng. Chàng không còn muốn sống. Đau khổ đã làm chàng thảm não và tâm hồn chàng vừa bị tàn phá tang thương như mặt đất sau cơn phong vũ điên cuồng. Chàng không còn dám có ý tưởng lên núi để nhìn mặt sư phụ. Người sư đệ vuốt tóc chàng, an ủi: "Thầy thương anh lắm. Không sao đâu, đại huynh sẽ ở mãi bên thầy (vỗ về). Đại huynh sẽ sống bên em như những ngày xưa êm đẹp cũ (khóc). Em không ngờ bao nhiêu năm dưới núi đã tàn hại anh đến thế."

Và người ta thấy trên con đường mòn cheo leo lên núi, bóng người sư đệ lần từng bước dìu chàng dũng sĩ trở lên động. Trời vẫn còn chưa sáng hẳn, bóng hai người in trên màn sương mỏng nhẹ của núi rừng buổi sáng. Tia nắng đầu tiên soi rõ dáng điệu thiểu não rời rã của chàng dũng sĩ bên cạnh dáng điệu diệu dàng từ hòa của người sư đệ. Mặt trời đã nhô khỏi đỉnh núi xa.

(Nguồn: Sưu tầm từ Quangduc.com)