Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)
Showing posts with label kechuyen. Show all posts
Showing posts with label kechuyen. Show all posts

Tuesday, February 27, 2024

Quốc vương Hữu Đức

 

Quốc vương Hữu Đức


Trong thời quá khứ vô lượng kiếp xa xưa, có đức Phật ra đời hiệu là Hoan-Hỷ Tăng-Ích Như-Lai. Lúc bấy giờ đất nước thái bình thạnh trị, dân chúng ấm no hạnh phúc an vui vô cùng, chẳng khác hạnh phúc của chư Bồ-Tát cõi nước Cực-Lạc. Ðức Phật Hoan-Hỷ Tăng-Ích trụ ở đời rất lâu, đến khi cơ duyên độ sanh viên mãn, Ngài nhập Niết-bàn ở thành Câu-Thi-Na, rừng Ta-La Song-Thọ. Sau khi Phật Tăng-Ích nhập Niết-bàn, chánh pháp còn ở đời rất lâu đến vô lượng ức năm. 

Vào lúc chánh pháp chỉ còn 40 năm cuối, bấy giờ có vị tỳ-kheo tên là Giác-Ðức trì giới thanh tịnh, đồ chúng dự nghe đông đảo. Tỳ-kheo Giác-Ðức khuyên cấm các tỳ kheo không được chứa nuôi tôi tớ, trâu bò, heo dê cùng những vật phi pháp. Ðiều nầy khiến cho các tỳ-kheo phá giới oán ghét tìm cách phá phách hãm hại tỳ-kheo Giác-Ðức. Lúc bấy giờ Quốc-vương Hữu-Ðức biết được sự việc như vậy. Vì lòng hộ trì chánh pháp, nên nhà vua đem quân lính đến bảo vệ tỳ-kheo Giác-Ðức an toàn thoát khỏi nạn.

Bọn tỳ-kheo phá giới kia tức giận gây chiến với nhà vua, làm cho nhà vua bị thương nặng. Thấy cảnh đau lòng, tỳ-kheo Giác-Ðức an ủi nhà vua rồi khen: "Lành thay! Lành thay! Vua vì hộ trì chánh pháp mà không tiếc thân mạng. Ðời sau thân vua sẽ là vô lượng pháp khí". Nghe xong lời tán thán ấy, nhà vua hoan hỷ thân tâm nhẹ nhàng, rồi tắt thở, thần thức sanh về cõi Phật A-Súc làm đệ tử thứ nhất của Phật nầy. 

Quân lính theo vua chiến đấu với bọn ác tăng và những người tùy hỷ khen ngợi tinh thần vị pháp vong thân của nhà vua đều được tâm Bồ-đề bất thối chuyển, sau khi chết đều được sanh về cõi Phật A-Súc. Còn tỳ-kheo Giác-Ðức sau khi mạng chung cũng được sanh về cõi Phật A-Súc làm đệ tử thứ hai trong chúng Thanh-văn của đức Phật nầy".

Khi thuật câu chuyện trên đây xong, đức Thích-Ca Như-Lai gọi ngài Ca-Diếp nói: "Nầy Ca-Diếp! Vị Quốc-vương Hữu-Ðức kia chính là tiền thân của ta. Còn tỳ-kheo Giác-Ðức chính là tiền thân của Ca-Diếp đó vậy.

Bài học: Ở thời mạt pháp, nơi mà ma chướng nhiều hơn thuận duyên, người tu cần nổ lực tinh tấn trong việc tu tập đạo pháp và bảo vệ chánh pháp. Trong câu chuyện này, nhà vua Hữu Đức vì hộ pháp mà phải mất mạng, nhưng đó là cái chết đẹp, mang lại sự tái sanh ở cảnh giới tốt lành. Tỳ kheo Giác Đức là biểu tượng đáng khen ngợi cho người tu hành, vì đã khéo léo hộ trì, giữ gìn chánh pháp cho đời sau. Chúng ta đang sống trong thời mạt pháp, cần nổ lực tu tập, vượt qua chướng duyên, để có thể hoằng pháp, lợi sanh và tránh những ma lực, chướng ngại của thời đại.


(Nguồn: Những mẩu chuyện Phật giáo dành cho thiếu nhi - tập 3 - Đức Kiên)

Friday, October 28, 2022

Sa di mê cọp

Sa di mê cọp 

Thuở xưa, có thầy tỳ kheo tu hành trong tịnh thất nhỏ trên núi, nơi xa xôi hẻo lánh, ít người lai vãng. Nếu có ai, cũng chỉ có các vị thợ rừng, thợ săn và tiều phu mà thôi.

Một hôm, thầy tỳ kheo xuống làng khất thực, lượm được một đứa bé trai kháu khỉnh dễ thương, bị người ta bỏ. Thầy đem về, xin sữa nuôi nấng cho đến lớn. Rồi thầy dạy tụng kinh, bái sám, công phu và cho thọ giới Sa di.

Năm ấy, chú Sa di được hai mươi tuổi, ngây thơ, hồn nhiên và chưa lần nào xuống nhân gian. Một hôm, thầy tỳ kheo có pháp sự cần có chú đi theo. Khi xuống làng xóm, chú thấy cái gì cũng lạ, chú liền đưa mắt nhìn say mê, tuy nhiên chú cũng phải đi theo thầy.

Khi pháp sự xong, hai thầy trò trở về tịnh thất. Trên đường tình cờ chú gặp một cô gái độ mười bảy, mười tám tuổi, thân thể dịu dàng, vẻ mặt xinh đẹp. Chú trân người mà nhìn, không chịu đi. Thầy tỳ kheo ngó lại biết việc nên nói, “Đi mau chớ cọp đồng nó bắt nó ăn mất hồn xác đó!”

Chú Sa di miễn cưỡng ra đi. Nhưng khi về tới tịnh thất thì quên ăn, biếng ngủ, vẻ mặt bơ phờ như người mất hồn. Thầy tỳ kheo thấy thế, hỏi, “Sa di, con sao như thế?”

Chú Sa di nước mắt ràn rụa nói rằng, “Con nhớ thương con cọp đồng quá! Thà con xuống núi cho cọp đồng nuốt xác, ăn hồn con cũng được chớ sống thế này khổ lắm thầy ơi!”

Thầy tỳ kheo biết Sa di này nghiệp ái quá nặng không thể tu được, thầy an ủi vỗ về và cho chú xuống núi.

Thế mới biết, nghiệp ái của con người rất là nặng. Người tu hành muốn thoát khỏi nghiệp này cũng thiên nan, vạn nan.

Kinh dạy: Người tu hành thoát khỏi ái dục, giới hạnh thanh tịnh, cho đến mãn tuổi thọ là vị xuất trần La Hán.

Tổ cũng dạy: “Ái bất trọng bất sanh Ta Bà. Niệm bất nhất bất sanh tịnh độ.” Nghĩa là: Ái không nặng nghiệp thì không sanh vào cõi Ta Bà. Niệm Phật không nhất tâm thì không sanh về Tịnh Độ.

Bài học: Người tu học cần tránh xa 5 món dục, là : tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn uống, và ngủ nghỉ. Câu chuyện trên nói đến lòng tham sắc đẹp (ái dục) của cậu sa di. Đây là thứ dễ cám dỗ nhất, đặc biệt là đối với những người trẻ tuổi. Người tu học cần rèn luyện hạnh « thiểu dục, tri túc », đồng thời, cần quán chiếu bản chất vô thường của cuộc đời, và bất tịnh của thân thể để đối trị lòng tham dục.

(Nguồn: Những mẩu chuyện PG dành cho thiếu nhi - tập 3 - Đức Kiên)

Wednesday, January 13, 2021

Kinh Hiền Nhân

Kinh Hiền Nhân (trích lược)

Ngày xưa, ở một quốc gia nọ, nhà vua vì tin dùng các quan nịnh thần và nghe lời hoàng hậu bất chính, nên đã khiến cho Hiền Nhân, một vị quốc sư tài đức, sinh lòng chán nản và quyết định rời đi. Dưới đây, là trích đoạn phần cuối của câu chuyện để mọi người cùng chiêm nghiệm. Ở xã hội nào, mà người lãnh đạo biết tôn trọng hiền tài, xa rời gian nịnh thì đất nước thái bình thịnh trị. Ngược lại, thì loạn lạc, lầm than, nhân dân đói khổ.

 nhân gian có một thứ cây tên là Phản Lệ. Người chủ trồng nó thì không được ăn trái, còn có kẻ muốn hái trộm thì trái lại sinh ra cho mà hái. Bệ hạ cũng như cây ấy: người giúp nước được an ổn lại hất hủi đuổi xô, còn kẻ nịnh thần gian dối phá tan việc triều chánh lại cầm ở lại cho ăn bổng lộc. Khách ở lâu, chủ nhà sinh nhàm chán, nên Hiền Nhân nầy phải đi vậy.

Nhà Vua kính cẩn thưa:

- Mạng người rất trọng, cúi xin Ngài giũ lòng từ nghĩ thương đến. Trẫm nay muốn đem thân tôn thờ Ngài hơn xưa.

- Bệ hạ nói thế, nhưng cũng chưa chắc gì làm được. Ý Phu nhân rất độc ácHiền Nhân nầy không nên ở lại làm chi, Hiền Nhân là vị Sa-môn mang bình bát khất thực, tự vui và dứt trừ tham vọng, giữ trọn giới luật của đạo và xa lìa tất cả tội lỗi.

Nhà Vua khẩn khoản:

- Ngài đã quyết định, Trẫm không thể cản ngăn. Nhưng xin Ngài chớ đoạn tuyệt, cúi mong một phen trở lại để lòng Trẫm khỏi ân hận.

- Nếu như Bệ hạ và Hiền Nhân nầy đều mạnh giỏi thì còn có lúc gặp nhau. Hôm nay Hiền nầy muốn vào núi để tu dưỡng tính tình, rèn thêm chí cả. Gần nhau để mà nghĩ đến chuyện ác hại nhau thì chi bằng xa nhau mà nhớ nhau trong tâm niệm lành. Người trí nghe thí dụ cũng đủ rõ; nay Hiền Nhân nầy xin đem một câu chuyện để thí dụ Bệ hạ nghe:

"Như người lấy mật xoa vào lưỡi dao, đưa cho con chó liếm, vì tham chút mật ngọt nên bị đứt lưỡi, mà chó không biết đau đớn. Nay bốn quan cận thần cũng thế: chỉ nói ngon ngọt ngoài miệng mà trong tâm dường như dao bén. Vậy Bệ hạ phải đề phòng cho lắm và từ đây về sau nếu gặp những sự kinh hãi, Bệ hạ thường nhớ đến Hiền nầy thì kinh sợ sẽ tiêu tan.

Loài chim cú chim mèo thì ưa ở nơi bụi rậm, chuột bọ thì ưa núp dưới đống rác đống rơm; chim chóc thì đậu trên cành; mà chỉ có con hạc là ưa ở gần ao nước đục. Mỗi vật đều có một tánh chất riêng, chí nguyện bất đồng, sự ưa thích có khác. Hiền Nhân nầy mến đạo, Bệ hạ thì ưa việc trị dân, đó là sự sai khác.

Những vật thô xấu cũng đều có chỗ cần dùng, không nên phí bỏ tồi tàn. Hạng người nào, dù bần tiện, ngu hiền đến đâu ta cũng không nên hất hủi. Họ đều là người hữu dụng, Bệ hạ phải hiểu như thế. Hiền Nhân cũng đã biết người, biết lời nói, biết ý nghĩ của họ thế nào rồi. Con chim ban đầu đậu ở cành thấp, sau nhảy lên nhánh cao. Hiền nầy thấy con Tân Kỳ sủa, biết rằng không ngoài thì trong, đã có sắp đặt mưu mô gì đó, nên trong lòng chán ngán, thôi để Bệ hạ chuộng mới quên cũ, Hiền nầy xin đi."

Nói xong liền đứng dậy mang bát, chống tích trượng ra khỏi thành.

Đức Vua cùng Phu nhân khóc lóc đi đưa, người trong nước lớn nhỏ không ai là không kêu rêu oán trách. Nhà Vua ủ rũ theo sau Hiền Nhân, hỏi bằng một giọng buồn rầu:

- Ngài đi thì Trẫm còn biết tin nhờ ai nữa ?

Hiền Nhân đáp:

- Có người con của chị Hiền Nhân nầy rất là hiền lành. Bệ hạ cũng nên đàm luận cùng nó. Lúc nào rảnh, Bệ hạ hãy cùng nó ra đi tuần hành trong nước và nghe những câu ca dao của dân chúng, nó có thể biết được trong nước thịnh suy, còn mất.

Nhà Vua đáp:

- Trẫm xin nghe lời Ngài dạy.

Rồi cùng đình thần và nhân dân làm lễ Hiền Nhân rồi tiễn người ra khỏi thành quá một đoạn đường.

Từ ấy về sau, nhân kẻ trung chính đi rồi, thì kẻ loạn thần tha hồ tung hoành, gian nịnh. Ngoài thì bốn quan cận thần cậy thế bắt ép lương dân, trong thì phu nhân dùng thói yêu nghiệt làm nhà Vua mê hoặc không còn nghĩ đến việc nước, chỉ dâm lung, ưa vui, ngày đêm vùi thân trong say đắm. Quan liêu cầm quyền tự do thâu thuế bắt ép nhân dân không một chút từ tâm nhân đạo. Kẻ lấy thuế chợ mà không thèm nhìn món đồ, người mạnh lấn hiếp kẻ yếu, bóc lột tàn sát lẫn nhau không kể gì đến pháp luật. Có kẻ lại bắt con gái của người về làm nô lệ, tỳ thiếp. Thân thuộc ly tán, tìm đường trốn tránh tản lạc mỗi người sống vất vưởng mỗi nơi, tai họa liên miên mà nhà Vua không bao giờ biết đến. Mưa gió không phải thời, trồng trọt mất mùa, nước loạn dân nghèo, sự đói khó đầy đường, tiếng than van oán trách phổ vào câu ca giao cảm động đến cả quỷ thầnNhân dân sầu khổ, lo sợ, chết không biết bao nhiêu, kẻ sống vừa than khóc vừa đi, không ai không nhớ tưởng và mong cầu Hiền Nhân độ trước.

Hiền Nhân, như chim ưng vua của loài chim, dẹp trừ được người gian ác, lại saün có lòng nhân từ thương xót mọi loài. Bây giờ còn người đâu nữa, để yên lòng dân và cứu muôn ngàn tai ách?

Con của chị Hiền Nhân tên là Đạo Nhân, sau khi đi qua quận huyện khác trở về, thấy trong nước loạn lạc, xóm làng hư hoại, nhân dân cùng khốn, bèn vào cung tâu với nhà Vua: "Tâu Bệ hạ! Các quan đại thần làm việc bất chính, buông tha kẻ trộm cướp, bắt kẻ vô tội, tàn hại nhân gian bết đường vô nhân đạoMuôn dân oán thán, quỷ thần giận dữ nên gieo nhiều tai họaĐâu đâu cảnh khổ cũng tràn lan mà Bệ hạ thì không hay biết gì cả.

"Nếu Bệ hạ không sớm trừ bọn loạn thần gian ác ấy thì sau nầy sẽ không còn một tên dân ?"

Nhà Vua nghe nói, rất là kinh hãi, hoảng sợ đáp:

Quả thật như lời Hiền Nhân dạy Trẫm khi trước. Trẫm đã sử dụng bốn tên loạn thần phá hoại nước nhà chẳng khác gì thả chó sói trong bầy cừu vô tội. Trẫm chắc thế nào dân chúng cũng bị khốn ách. Trẫm đã buông cương mặc cho con ngựa điên lôi kéo cỗ xe trị quốc, thế nào nó cũng kéo xe xuống hố sâu. Ngài đã đến đây thức tỉnh Trẫm và bảo Trẫm như thế, bây giờ Ngài có cách gì dạy Trẫm để trị an xã tắc được không?

Đạo Nhân thưa:

- Từ khi cậu tôi ra đi đến nay, trong nước bị rối loạn luôn, tất cả đều do bọn gian thần. Bệ hạ phải trù tính phương kế gì để hưng phục lại giang sơn. Nước nhà còn có thể hưng phục được. Xin Bệ hạ hãy cùng thần đi tuần hành một phen, để chính mắt Bệ hạ được thấy, chính tai Bệ hạ được nghe những nổi thống khổ rồi mới biết thế nào là đúng sự thật.

Nhà Vua liền cùng Đạo Nhân cải trang ra đi để dọ xét tình hình trong nước.

Vừa ra khỏi thành thì thấy một toán phụ nữ xiêm y rách rưới vừa đi vừa khóc. Đạo Nhân thấy thế liền hỏi: "Các chị sao mà khổ sở rách rưới như thế? Sao không lo làm ăn, hoặc có khó khăn lắm thì đi lấy chồng để nhờ chồng, tuổi các chị cũng đã lớn rồi kia mà."

Một người trong bọn trả lời:

- Vì nhà Vua cả. Phải chi nhà Vua rách rưới nghèo đói như chúng tôi thì mới bõ ghét.

Đạo Nhân bảo:

- Các chị nói như thế là không đúng rồi, vì nhà Vua là bực cao sang chỉ lo những công việc to tát, đâu có thì giờ lo cho các chị được. Các chị phải tự đi làm mà sinh sống lấy chứ.

- Không phải thế đâu . Vì Vua trị nước không minh, nên trong nước phải đói rách và loạn lạc. Ngày thì khốn với bọn quan lại tham ô vơ vét, đêm thì khốn với trộm cướp tứ tung, áo không đủ mặc, cơm không đủ ăn, vì thế còn ai thèm cưới gả chúng tôi nữa.

Đi một quãng nữa, nhà Vua gặp một bà già, áo không kín thân, hình hài gầy yếu, mắt lòa sờ soạng, vừa đi vừa khóc lóc. Đạo Nhân hỏi:

Bà già lo lắng gì mà khóc vậy?

Bà già ngửng lên đáp:

- Vì nhà Vua cả. Phải chi nhà Vua mà mù như lão đây thì mới đáng kiếp, lão sướng lắm vậy.

Đạo Nhân bảo:

- Bà nói như thế là lầm rồi, hễ già thì mắt mờ, nhà Vua có lỗi chi đâu?

- Đêm thì bị cướp, ngày thì bị quan lại nhiễm ô, phải chịu nghèo đói, nên lão đây mới phải hái rau lượm củi đổi gạo để nuôi sống, đạp phải độc trùng, vương phải độc khí nên mới bị mù què thế này. Vậy không phải lỗi của nhà Vua hay sao?

Vua tôi lại đi đến một quãng đường, thấy có người đàn bà đang lom khom nặn sữa bò. Con bò đá một cái, người đàn bà ngã lăn xuống đất, lồm cồm bò dậy, mắng:

- Phải chi mày đá hoàng hậu vợ Vua một đạp như vậy cho bõ ghét. Mày đá tao làm gì!

Đạo Nhân hỏi:

- Tự con bò dữ đạp bà, chớ nhà Vua, à quên, hoàng hậu vợ Vua có tội lỗi gì?

- Không lỗi à? Nhà Vua bất chính, vợ Vua xui xiểm, nước nhà mới rối loạn, không lo cấm ngăn trộm cướp, để nó bắt bò lành của tôi, chỉ để lại một con bò dữ, vắt sữa nó làm nó đạp một cái đau điếng người. Tại nhà Vua chớ ai nữa.

Đạo Nhân bảo:

- Tại bà không biết cách nặn sữa nên bị nó đá.

Người đàn bà đáp:

- Không phải thế đâu! Nếu nhà Vua ở chính thì Ngài Hiền Nhân sẽ ở lại đây, nước nhà đâu có bị loạn lạc.

Đi một lát nữa, đến khoảng đồng ruộng nhà Vua thấy một con chim đang mổ một con ếch. Con ếch lún vào bùn, mắng rằng: "Phải chi mày mổ Vua một cái như thế thì tao mới thích cho. Mày đừng mổ tao."

Đạo Nhân bảo con ếch:

- Ngươi bị con chim nó mổ, chứ đâu lỗi ở nhà Vua, nhà Vua đâu có giữ hộ cho ngươi được.

Con ếch đáp:

- Tôi không trông mong nhà Vua giữ hộ cho tôi đâu. Vì nhà Vua không ân nhuận, việc chính trị bất bình đẳng, bỏ phế việc cúng tế, bỏ phế việc dẫn thủy nhập điền, vì thế trời hạn, nước khô, thân tôi phải bày ra để cho con chim nó mổ.

Con ếch lại than:

- Nếu nhà Vua biết chấp giữ quyền chính thì bỏ một người ác lợi cho một nhà, bỏ một nhà ác lợi cho một làng, rồi sẽ đến cảnh một xã hội quốc gia thịnh trị. Vì không biết chấp giữ quyền chính nên nhân dân thất sở, thiên hạ kêu ca.

Liền đó, Đạo Nhân tâu Vua:

- Xin Đại Vương xét kỷ: trăm họ vô tội, khổ sở khóc than cảm động đến cả quỷ thần, đến nỗi con ếch mà còn thốt lời như vậy. Chắc Đại Vương cũng đã thấy rồi. Vậy xin hãy đuổi kẻ ác, để kiến thiết quốc gia lại trên nền tảng thiện chánh, để muôn dân hồi đầu trở lại. Tâu Đại Vương, bây giờ bắt đầu gieo giống lúa ở ruộng tốt, gặp mưa thuận gió hòa thì lo gì mùa màng không trúng.

Vua hỏi:

- Vậy theo ý Ngài thì nên giao phó trách nhiệm nầy cho ai?

- Bệ Hạ phải mau mau mời ngài Hiền Nhân trở về vì Ngài là người rõ biết thời cơ, nếu trở về thì trong nước sẽ lại được bình an.

Nhà Vua cùng Đạo Nhân trở về cung. Ngài gọi một sứ thần lên căn dặn:

- Nhà ngươi hãy vì Trẫm vào núi rước ngài Hiền Nhân về. Và nếu Ngài không về, ngươi sẽ thưa: "Hoàng thượng nay đã tự biết ăn nănmuôn dân oán trách nên Hoàng thượng lo buồn không ăn cơm được và đang mong mỏi Ngài về. Xin Ngài giũ lòng nhân từ thương xót chúng sanh." Nói như thế, Ngài biết trong nước loạn lạc và saün lòng thương xót, chắc sẽ trở về.

Sứ thần vâng mệnh ra đi, trải qua mấy hôm len lỏi trong núi rừng, mới đến được chỗ ngài Hiền Nhân ở. Sứ thần cúi đầu làm lễ và thưa:

- Kính bạch Ngài! Nhà Vua ân cầnhết lòng cung kỉnh, tự biết mình tội lỗi quá nặng, làm sai ý thánh nhân và để cho nước nhà loạn lạc trăm họ cùng khốn, nên đang mong mỏi Ngài trở về. Nhà Vua khóc lóc, nghĩ nhớ đến Ngài, không ăn uống gì được cả. Cúi xin Ngài mở lòng thương xót nhà Vua một phen nữa. Kính thỉnh Ngài trở về.

Hiền Nhân nghe nói, thương xót nhân dân, nên sửa soạn theo sứ giả trở vềDọc đường, thấy con khỉ chết khô, Ngài liền lột lấy da để làm tọa cụ.

Nhân dân trong nước nghe tin Hiền Nhân đã trở về, đều ra tận biên giới nghinh tiếp và mời Ngài về lại tịnh xá ngoài thành.

Nhà Vua mặc triều phục, ra tận tịnh xá yết kiến, làm lễ Ngài. Sau khi hỏi han, Vua ngồi lại một bên, vòng tay tạ tội, thưa với Hiền Nhân:

- Trẫm vì sơ sót suy nghĩ không đến nơi đến chốn, nên làm hại nhân dântrăm họ oán trách. Nay Trẫm một lòng chí thành cầu sám hối, xin Ngài tha thứ cho Trẫm bao nhiêu tội lỗi lầm lạc.

Hiền Nhân đáp lễ:

- Người có tội mà biết sám hối là hay lắm.

Rồi thấy bốn quan cận thần kề tai nói nhỏ, thầm thì với nhauHiền Nhân bảo:

- Các ngươi là người vô tội, sao không nói chuyện công nhiên, cần gì phải nói to nói nhỏ.

Bốn quan cận thần nổi giận:

- Ông làm Sa môn, lòng những mong mỏi phước trời, người người đều gọi ông là ông Hiền, lẽ ra ông không nên giết con khỉ mà lột da như thế.

- Các người mê hoặc lấy mình, không phân biệt cái gì là chân chánh, cái gì là tà ngụy. Bọn người làm điều ác đức, cái đó trời Phật đã biết, nên biết rằng khổ vui đều có trong luật nhân quả, không thể tránh được. Làm điều ác, tội ác sẽ theo đòi, làm điều lành, quả báo tốt sẽ đền trả, trọn đời không mất. Họa phúc tự mình, kẻ ngu tưởng là đâu xa cách. Bọn ngươi lấy việc ta lột da mà nạn rằng ta giết khỉ, điều ấy có giống việc gian ác giết hại của các người không? Lại cứ nói mạng người tại trời, làm lành không phước, làm ác không họa; phải biết rằng họa phước rõ ràng như vang theo tiếng, bóng theo hình, chứ không phải họa phước tự trên trời rơi xuống. Các ngươi làm ác mà không tự biết, muốn che dấu nhưng nào có che dấu được. Lại lấy sự chê bai ta mà cho là đắc sách. Trong bọn ngươi há chẳng có một người nói rằng: "Hễ người chết thì thần hồn tiêu diệt không sanh trở lại nữa." Lời nói ấy có phải là lời nói của bực thánh nhân chăng? Hay là tự ý ngu muội của các ngươi bịa đặt ra? Các ngươi muốn làm chuyện ác rồi trở lại bảo rằng làm ác không tai họa, làm lành không được phước. Đó có phải là lời nói bịp người để che tội lỗi mình không. Còn các ngươi tự cho mình là hiểu thiên văn. Kìa hiện tượng của vũ trụ rõ ràng kia; nhựt nguyệt và tinh tú đó, các ngươi bảo ai tạo ra đó vậy ?

Bốn quan cận thần nghe nói, làm thinh không còn biết trả lời sao nữa.

Hiền Nhân tiếp:

- Tất cả hiện tượng trong vũ trụ đều do nghiệp lực tội phước. Làm lành làm ác đều do quả báo như bóng theo hình, người chết bỏ xác thân nhưng không bỏ được nghiệp hành. Gieo giống, tuy hạt lúa thúi mục dưới đất, nhưng sau nầy sẽ sanh ra cây đâm ra nhánh lá và kết hột trên ngọn. Thắp đèn, tim dần dần lụng, nhưng lửa vẫn còn đỏ mãi, hạnh nghiệp tội phước vẫn còn luôn luôn như người thắp đèn viết thơ, rồi đèn tắc, nhưng chữ vẫn còn. Hồn thần tùy hạnh nghiệp chuyển sinh đời khác, không hề gián đoạn. Các ngươi làm ác mà tự cho là cao cả, cũng như người giết cha mẹ mà lại có thể cho là vô tội sao?

Bốn quan đáp:

- Một nhánh cây còn không nên trái lá của nó thay, huống chi là giết cha mẹ mà cho là vô tội.

Hiền Nhân tiếp:

- Và bọn ngươi nạn ta, nhưng chính thực là ta lột lấy da con khỉ chết - vì khỉ chết, chớ ta nào có giết nó mà lột da? Còn bọn ngươi vu oan cho người, tội ác đó sẽ tính thế nào? Huống chi lại còn chủ trương tà quấy; bề ngoài giả làm lành, mà bên trong lại ẩn khuất làm việc gian ác. Cũng như vàng giả: ngoài thì nước vàng mà trong thì toàn đồng. Bề ngoài diện mạo tốt đẹp mà trong tâm toàn là sàm tặc. Thiệt chẳng khác gì chó sói lạc vào bầy dê, ngấm ngầm ăn hết bầy dê mà người giữ dê không hề hay biết.

Kẻ ác trong đời lắm khi cũng tự xưng đạo đức, giả khổ hạnh, cùng diễn giải kinh giới, nhưng bên trong chuyên hành tà siểm dối trá để cầu mong danh lợi. Người ngu không biết lại quay về tin phục. Rồi như nước sông gặp lụt, chảy tràn đầy dẫy, chưa kịp rút về biển cả, làm hại biết bao nhiêu người. Chỉ có bực thánh nhân mới có thể cứu giúp thiên hạ, cải bỏ ác tục, sửa sang việc lành, ai ai cũng đều nhờ cậy.

Nếu cho làm lành không phước, làm ác vô hại, thì các bực cổ thánh để lại bao nhiêu kinh điển làm chi và truyền trao gươm báu cho Vua làm chi? Hành nghiệp đều có quả báo rõ ràng. Làm dữ bị tai họamọi người đều ghét, không lâu thì mau tai họa ấy sẽ đến. Làm việc ân đức tuy ẩn kín, nhưng sau nầy sẽ bày ra và phước quả sẽ đem lại cho mình.

Vậy nên trong nước có Vua, Vua phải thuận theo phép Đạo, ủy nhiệm vụ cho người hiền, phó thác việc làm cho kẻ tài trí, ban thưởng người lành, trừng phạt người gian ác.

Bánh xe lăn tròn không ngừng, hành nghiệp cứ tùy theo đấy thọ sinh về nơi lành nơi dữ. Phải tin chắc có tội phước, đừng làm điều gian dối .

Phải hết sức cẩn thận lánh xa những kẻ gian ác và phải biết ăn năn tội lỗi Nếu mọi người đều lành thì bẩm tánh và quả báo sẽ lành đẹp giống nhau, song vì người làm ác rất nhiều nên nhân quả bất đồng: kẻ sống lâu, người chết yểu, kẻ nhiều bịnh, người ít bịnh; kẻ xấu xa, người tốt đẹp; kẻ nghèo hèn, người giàu sang. Kìa những người ngu, đui, điếc, câm, ngọng, kẻ mù què, tàn tật trăm điều đều do đời trước gây ác nhân mà nay gặt lấy ác quả. Còn đức độ, trung chánh, hiền từ nên là trí tuệ, đế vương, hào phú và muôn sự hạnh phúc. Như thế là nhân quả rõ ràng, sao lại bảo rằng không. Xin hãy suy nghĩ kỹ càng đừng lạc lầm vào tà đạo.

Hiền Nhân giảng xong, Vua cùng quần thần và tất cả nhân dân không một ai là không hiểu rõ và vui mừng.

Hiền Nhân lại nói tiếp:

- Và nay Hiền Nhân nầy lại xin nói một sự tích: Thuở xưa có một ông Vua tên là Cẩu Lạp có một cái ao trong ấy nuôi nhiều thứ "Cá ngọt." Vì cá ngọt ít xương mà ngon lắm nên nhà Vua cử một quan giám ngư - quan xem cá - để giữ gìn ao cá. Mỗi ngày dâng Vua tám con, nhưng quan giám ngư mỗi ngày cùng ăn chùng ăn lén mất tám con. Vua biết cá mất, nên cử tám quan giám ngư để cùng nhau giữ gìn ao cá. Song tám vị giám ngư trùng đảng với nhau mỗi ngày mỗi người đều ăn lén hết tám con -- té ra người giữ cá nhiều chừng nào thì cá lại mất nhiều chừng ấy.

Nay Bệ hạ đây cũng vậy. Giao nhiệm vụ cho nhiều người thì nước nhà càng thêm rối loạn. Cũng như kẻ hái trái non, ăn đã không có mùi vị gì mà lại làm mất giống, trị nước mà không dùng kẻ hiền, đã thiệt hại cho dân mà sau nầy tiếng tăm cũng mất và phước phần đều không. Trị nước bất chính làm cho thiên hạ có tâm tranh đoạt, cũng như muốn sửa sang và hưng nghiệp gia sản, mà không chịu để tâm dụng trí thì của cải mỗi ngày mỗi hao hớt đi.

Nước có tướng giỏi binh nhiều mà không chịu tập việc chiến trận, không lo lắng kiến thiết nước nhà, thì nước ấy sẽ bị hèn yếu. Làm Vua không kính đạo đức, không tôn thờ bực cao minh, thì hiện tại không người giúp đỡ và tương lai không được gặp phước lành. Hằng ngày giết hại, muôn họ kêu ca, thì tai họa thường xảy ra tới tấp, chết đi để tiếng xấu muôn đời.

Theo chính pháp trị dân thì được lòng người, kính thờ bực tôn trưởng, yêu mến trẻ thơ, hiếu thuận cha mẹ, vâng làm việc lành thì hiện tại an ổn và lại sinh thọ phước.

Làm việc trung chánh cũng như đi thẳng đường, lấy việc trung chánh làm cội gốc thì mọi người đều khâm phục. Như thế, sẽ gây được hạnh phúc thái bình. Lại phải sáng suốt, lượm lặt những lời xưa để làm kinh nghiệm cho đời nay, động tịnh phải biết thời, ân oai cho có lý, ban bố ân huệ cho nhân dânbố thí nền bình đẳng. Được như thế thì đời nay sẽ an ổn vui vẻ, sau nầy sẽ quyết tu chứng đạo giác ngộ.

Chúng hội nghe ngài Hiền Nhân dạy, đều vui mừng vỗ tay khen ngợi không ngớt.

Nhà Vua liền đứng dậy cúi đầu thưa rằng:

- Nay Trẫm được nghe lời Ngài dạy, cũng như cơn gió mạnh thổi tan mây mù. Vậy xin Ngài mở lòng từ bi, nghĩ đến quốc giadạy bảo quốc dân và giúp đỡ Trẫm trị dân như trước.

Hiền Nhân liền đứng dậy, theo Vua về cung, cùng luận bàn chánh sự.

Bốn quan cận thần, rồi sau bị đuổi. Hiền Nhân giúp nước, ân huệ thấm nhuần, gió mưa hiệp thời, mùa màng trúng tuyển, nhân dân đều vui vẻ, bốn biển một nhà, trên dưới hòa thuận đều chung sức gây lại một cuộc thái bình thạnh trị ...

(Nguồn: https://thuvienhoasen.org/a1018/kinh-hien-nhan)