Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)
Showing posts with label duytan. Show all posts
Showing posts with label duytan. Show all posts

Monday, November 7, 2016

Khuyến học - Fukuzawa Yukichi

Đã nghe danh quyển "Khuyến học" của Fukuzawa Yukichi từ rất lâu, và cũng đã đọc loáng thoáng về nó, nhưng chưa có dịp đọc kỹ. Gần đây, có nhân duyên được tặng quyển sách "Khuyến học" trong bộ sách tuyển chọn của cà phê Trung Nguyên, nên có dịp đọc kỹ hơn. Đúng là danh bất hư truyền!
Càng đọc, càng hiểu vì sao ông được coi là người đặt nền tảng cho nước Nhật hiện đại, và rất được tôn trọng khi hình ông được in trên đồng tiền Yên có mệnh giá cao nhất.
Trong sách, không chỉ khuyến khích người Nhật học hỏi văn minh, kỹ thuật phương Tây để thoát khỏi sự lạc hậu, và tránh họa ngoại xâm, mà quyển sách còn giới thiệu những khái niệm rất căn bản về: Bình đẳng, Tự do, Độc lập, Trí thức chân chính, Pháp trị, Thượng tôn pháp luật, Quan hệ giữa chính phủ và người dân, Quyền và trách nhiệm của công dân... Những suy nghĩ lệch lạc của người Nhật thời đó về sự học, nghĩa khí, sùng bái Tây phương, vai trò phụ nữ, đẳng cấp... cũng được phân tích rất thấu đáo và cặn kẽ. Đặc biệt là phần bàn về quan hệ giữa Chính phủ và Người dân càng cho thấy sự tiến bộ trong tầm nhìn của ông. Ông là người lập ra trường Đông kinh nghĩa thục, mà cụ Phan đã viếng thăm, học hỏi và dự định áp dụng mô hình tương tự ở Việt Nam. Rất tiếc, phong trào Duy Tân này đã không thành công!
Gần đây, thỉnh thoảng ta vẫn nghe các quan chức ở Việt Nam có những phát biểu xem chính quyền như cha mẹ, còn người dân như con cái (ngụ ý: phải biết vâng lời, con cái làm sao thay đổi được cha mẹ, làm sao thông thái hơn cha mẹ, dân trí ta còn thấp...). Đọc xong quyển sách này, tôi ước gì các quan chức và 4 triệu công chức, đảng viên ở Việt Nam nên đọc kỹ quyển sách này, sẽ thấy rằng những quan niệm đó là vô cùng trái tự nhiên và lạc hậu. Xin trích lại một đoạn dưới đây.
Mong sao, những bài viết và những tư tưởng tiến bộ của ông và những quan điểm tương tự sẽ được lan truyền trong xã hội Việt Nam ta, để làm nền tảng cho công cuộc "nâng dân trí và chấn dân khí" của nước ta trong thời hiện đại.

---

VÌ SAO CỨ MUỐN QUAN HỆ NGOÀI XÃ HỘI PHẢI NHƯ QUAN HỆ CHA CON TRONG GIA ĐÌNH?


Tôi lấy việc nuôi dy một đứa con khoảng chín, mười tuổi làm ví d.
Khi nuôi con, cha mẹ thường không để ý xem chúng cần cái gì và suy nghĩ ra sao. Cho ăn, cho mặc thế nào hoàn toàn dựa theo cm tính. Miễn là con cái ngoan ngoãn biết vâng lời, không làm trái ý mình thì trời lnh scho mặc ấm, bụng đói sẽ cho ăn no. Thức ăn, manh áo, chỗ ở giống như của Trời cho, cần lúc nào có lúc đó, con cái không phải lo nghĩ.
Đối với người làm cha làm m, con cái là thứ quý giá nhất. Nếu có chiều chuộng, có yêu thương hay mắng m, có cho roi cho vọt, cũng đều là hành vi xuất phát từ tình thương chân thực.
Hình nh cha mvới con cái là một như vậy mới đẹp làm sao! Đương nhiên, trong mối quan hệ này, trên (cha m) vẫn ở trên, và dưới (con cái) vẫn ở dưới. Hoàn toàn không có bất cứ một sự lẫn lộn nào.
Những người chủ trương một xã hội phân thành đẳng cấp, có trên có dưới, luôn ước ao quan hệ xã hội cũng được như quan hệ cha con trong một nhà. Mong ước đó rất hay. Nhưng có một vấn đề lớn phải suy nghĩ. 
Thực ra, mối quan hệ cha con chỉ hình thành trong điều kiện cha mlà những người lớn, chín chắn và con cái là những đứa trcòn non di. Mà phải là con đẻ mới được. Nhưng cho dù là con mình đẻ ra, khi tới độ tuổi nhất định thì người cha, người mẹ nào cũng cảm thấy chúng bắt đầu khó bo. Và mối quan hệ cha con bất hoà dần theo thời gian.
Với con cái nhà mình còn khó, huống chi là với con cái nhà người. Bởi thế, quan hệ ở ngoài đời giữa những người l- mà đều là trường thành - li còn khó gấp bội. Vậy phải làm sao để có thể hình thành được mối quan hệ giữa người với người trong xã hội giống như quan hệ cha con trong gia đình? Biến lý tưởng tành hiện thực qulà không dễ.
Hơn nữa, một đất nước, một làng, một chính ph, một công ty... tất cnhững gì mà người ta gi là "xã hội loài người" cũng đều là xã hội ca những người đã trưởng thành, xã hội ca những người không có quan hệ huyết thống với nhau. Trước một thật tế như vậy, mà lại mong ước áp đặt quan hệ cha con trong một nhà vào quan hệ người với người ngoài đời thì thậy là ảo tưởng.
Nhưng dù biết là khó song ai cũng đều muốn biến trí tưởng tượng thành hiện thực. Con người là vậy. Và đây cng chính là nguyên nhân dẫn tới đẳng cấp, địa vị trên dưới trong quan hệ giữa người với người, cũng chính là nguyên nhân sinh ra nền chính trchuyên chế tàn bo trong xã hội.
Vì thế, tôi mới viết ở đoạn trên rằng: Nguyên nhân chính đẻ ra đẳng cấp, địa vkhông xuất phát từ sự ác ý mà xuất phát từ trí tưởng tượng của con người.
Ti các quốc gia Á châu, người ta gi quân chlà "vua cha", gi dân chúng là "thần dân", "con đỏ". Ngoài ra, người ta còn gi công việc ca chính phlà "mục dân" (chăn dắt, trông coi dân). Ở Trung Hoa, người ta còn đặt tên cho các quan cai trị địa phương là "quan châu mục".
Thực ra, chữ "mc" ở đây, có nghĩa là chăn nuôi gia súc. Tức là đàn bò, bầy cừu được người ta chăn dắt vỗ về ra sao thì dân chúng trong vùng cũng được chăn dắt như vậy. Họ công nhiên tán dương "chiêu bài" này. Đối xử với người dân như lũ ngựa con, bầy nai tơ. Cách làm vô cùng thất đức, ngo mn.
Tuy vậy, như tôi đã trình bày ở đoạn trước, việc họ coi dân chúng như lũ trẻ con dại, như bầy cừu, như đàn bò cũng không phi do có ác ý gì. Chẳng qua hcố gắn việc trvì một đất nước theo kiểu cha mẹ chăm sóc, nuôi nấng con cái.
Để làm được như vậy, trước hết htự tôn quân chlà "vua cha" vừa có đức vừa có tài. Tiếp đến, bên dưới li có các quan đại thần anh minh sáng suốt giúp sức. Hra sức truyền bá trong dân chúng, rằng đấng quân chủ và các đại thần có tấm lòng trong như nước, ngay thẳng như "mũi tên", không tham lam hay vụ lợi. Đấng quân chyêu dân với tình thương bao la, lo cho dân từng bát cơm, manh áo, từng chốn nương thân. Dân đói thì cho go, gặp hohon thì cho tiền bc...
Cứ như thế, ơn đức của đấng quân chủ như luồng gió nam mát rượi thổi vào dân chúng. Còn dân chúng tuân phục đáng quân chủ như cờ phướn cuộn bay theo gió, nhũn như con chi chi, vô cảm như sỏi đá. Đấng quân chvà thứ dân hoà quyện vào nhau. Thế gian yên ổn thanh bình. 
Nghe hca tng mà cứ ngỡ là quang cảnh trên thiên đường đang hiện ra trước mắt!
Tuy vậy, thử suy ngẫm hiện thực xã hội srõ. Quan hệ giữa chính phvà nhân dân vốn là mối quan hệ giữa những người xa lvới nhau, không phi là quan hệ máu mruột tht. Quan hệ giữa người lvới người l, nhất thiết phi ràng buộc nhau bằng khế ước, hợp đồng. Chai phía cùng phi tôn trng hợp đồng, điểm nào chưa được thì phi tranh luận dàn xếp rồi thống nhất thực hiện. Luật pháp ca một quốc gia cũng được hình thành trên cơ sở đó.
Trên thế gian này, có quốc gia nào có được đấng quân chủ nhân đức, có được các quan đại thần sáng suốt anh minh, có được lũ thần dân nhu mì dễ bảo... không? Đó chỉ là giấc mộng ảo tưởng.
Có trường học nào đảm bo sẽ đào tạo ra toàn là các bậc thánh nhân, toàn là người tài đức? Có cách giáo dc nào chắc chắn ssn sinh ra thần dân dễ sai bo?
Ngay cTrung Hoa, từ thời nhà Chu, các nhà cai trị đã bao lần đau đầu khổ sở vì ước nguyện đó. Và đã có lần nào htrị vì dân chúng được đúng như ý nguyện không? Nếu được như thế thì đâu đến nỗi giờ đây cả quốc gia rộng lớn này đang bị ngoi bang giày xéo?
Vậy mà hvẫn cứ rao ging ra rlòng dquân chủ như biển Thái Bình v.v. Mà hcó muốn ca ngợi thì cứ việc ca ngợi lấy một mình. Bngoi xâm giày xéo mà vẫn cứ tiếp tc ca ngợi nền chính trnhân từ ca quân chCứ cho đó là chuyện của người ta, nhưng mù quáng đến như vậy thì chtổ cho thiên hạ chê cười. 

(Trích: Khuyến Học - Fukizawa Yukichi)

Saturday, September 5, 2009

ĐỔI MỚI – NHU CẦU CẤP THIẾT ĐỂ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN

ĐỔI MỚI – NHU CẦU CẤP THIẾT ĐỂ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN

Ngày nay, thế giới ngày càng nhận thấy vai trò quan trọng của việc đổi mới để tồn tại và phát triển. Toàn cầu hóa và sự thay đổi nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã khiến mọi thứ nhanh chóng trở nên lạc hậu, và không còn phù hợp nữa, nếu không đổi mới, thay thế thì chúng có thể trở thành những rào cản cho sự phát triển và tiến bộ của tổ chức và xã hội. Nhu cầu đổi mới này không chỉ giới hạn ở các tổ chức kinh doanh, mà nó đã nhanh chóng mở rộng cả về phạm vi (quốc gia, khu vực, quốc tế), và cả về lĩnh vực (chính trị, văn hóa, xã hội…).

Cuối năm 2008, chúng ta vừa chứng kiến nhân dân Mỹ đã quyết định chọn tổng thống da đen đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, vì họ nhìn thấy ở ông những tư duy mới mẻ và khả năng đổi mới cần thiết cho nước Mỹ. Gần đây nhất, chúng ta cũng chứng kiến người dân Nhật đã bỏ phiếu để bầu chọn thủ tướng mới thuộc về một đảng phái khác với đảng đã và đang cầm quyền nước Nhật trong suốt 50 năm qua, cũng chỉ vì khát vọng phải đổi mới đất nước để phát triển hơn nữa.

Đối với dân tộc Việt Nam, khát vọng đổi mới này đã có từ rất lâu, khát vọng đó đã được thể hiện qua những dòng thơ của cụ Phan Bội Châu gửi thanh niên:
“Thưa các cô, các chị, các anh
Ngày đổi mới, người càng nên đổi mới
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội
Ghé vai vào gánh vác việc giang san
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan
Dây đoàn thể quyết ghe phen thành hiệp lại
Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Cởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh thần
Chẳng thèm ăn, chẳng thèm mặc, chẳng thèm chơi
Lấy gan sắt để dời non lấp bể
Lấy máu nóng rửa vết nhơ nô lệ
Mới thế này là mới hỡi chư quân
Chữ rằng – Nhật nhật tân, hựu nhật tân”

Nhớ đến phong trào Duy Tân do cụ Phan phát động cách đây cả thế kỷ khiến chúng ta không khỏi nghĩ đến nhu cầu đổi mới đất nước ngày nay, bởi ý nghĩa của 2 chữ Duy Tân đã không hề lỗi thời mà lại càng rất phù hợp cho thời điểm hiện nay.

Việc đổi mới ở nước ta lúc này càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, không chỉ bởi tác động của toàn cầu hóa và sự thay đổi về công nghệ trên thế giới, mà còn bởi khao khát vươn lên “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” đã từ lâu vẫn chưa thực hiện được kể từ khi đất nước được hoà bình, thống nhất. Nếu so sánh với các nước xung quanh, ta sẽ thấy khát vọng đó là có thể thực hiện được, nhưng để biến khát vọng đó thành hiện thực một cách nhanh chóng đòi hỏi chúng ta phải thay đổi cách nghĩ và cách làm như bấy lâu nay. Hãy nhìn ra thế giới, nước Nhật chỉ cần 20 năm sau chiến tranh thế giới thứ 2, họ đã vươn lên từ đống đổ nát để đạt đến địa vị cường quốc kinh tế đứng hàng thứ 2 thế giới. Hàn Quốc từ sau hiệp định chấm dứt chiến tranh, họ đã trở thành cường quốc công nghiệp về lĩnh vực điện tử, máy tính và các sản phẩm công nghệ cao chỉ sau 25 năm. Sở dĩ, Nhật Bản và Hàn Quốc đạt được những thành tựu như vậy là nhờ họ biết tầm quan trọng của đổi mới và họ biết cách đổi mới một cách toàn diện dựa trên sức mạnh của cả dân tộc.

Ở nước ta, cũng chính nhờ chính sách “Đổi mới” nhằm thay đổi tư duy về quản lý kinh tế mà kinh tế đất nước mới có được sự khởi sắc như ngày nay. Tuy nhiên, vì chính sách đổi mới của chúng ta chỉ mang tính chất sửa sai và thay đổi từng phần, nên hiệu quả đạt được không cao, vẫn chưa thể làm cơ sở cho một sự thay đổi sâu rộng đất nước nhằm hướng tới mục tiêu lâu dài như mong mỏi của toàn dân.

Một khi đã nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới, vấn đề đặt ra bây giờ là chúng ta cần phải làm gì để rút ngắn thời gian để đất nước có thể “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”? Câu trả lời chính là ở sự đổi mới toàn diện và triệt để. Chúng ta phải dứt khoát từ bỏ những cái cũ, lạc hậu, để những cái mới, cái tốt đẹp có cơ hội được hình thành và phát triển. Sự đổi mới phải bắt đầu từ mỗi cá nhân, gia đình, tổ chức và lan rộng ra phạm vi toàn xã hội. Ở cấp quốc gia, những giải pháp đổi mới cụ thể có thể là: đổi mới tư duy sao cho phát huy được sự đoàn kết và sức mạnh tổng hợp của toàn dân; đổi mới cách quản lý lạc hậu để sao cho cơ chế trở nên gọn nhẹ hiệu quả, người thực tài sẽ đóng vai trò quản lý và đưa ra các đường hướng phát triển đối với lĩnh vực hay bộ phận mà mình phụ trách; đổi mới giáo dục để đào tạo ra những con người có đủ năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức cần thiết cho đất nước; đổi mới truyền thông sao cho người dân được tiếp cận các thông tin có giá trị, các tin tức, bình luận, tiếng nói phản biện của người dân được truyền thông rộng rãi, góp phần điều chỉnh các hiện tượng tiêu cực, và đấu tranh với những sai trái; đổi mới luật pháp sao cho kỷ cương phép nước được tôn trọng, thể hiện sự nghiêm minh, công bằng đối với mọi đối tượng trong xã hội; đổi mới quân đội sao cho đủ hùng mạnh để đảm bảo được toàn vẹn chủ quyền của đất nước, an ninh của nhân dân, đóng góp vào trách nhiệm chung của quốc tế và nêu cao danh dự của tổ quốc…

Lúc này, nhu cầu đổi mới để tồn tại và phát triển đã trở thành cấp bách hơn bao giờ hết, không chỉ đối với nhân dân thế giới mà còn đối với cả dân tộc Việt Nam. Vì nếu không đổi mới, cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận nhìn thấy đất nước mình sẽ tụt hậu ngày càng xa trong cuộc tranh đua quốc tế, mà tốc độ và mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thời đại ngày nay đòi hỏi chúng ta phải hành động một cách nhanh chóng, dứt khoát và không thể chần chừ hơn nữa, bởi nếu chần chừ trong việc đổi mới nghĩa là chúng ta đã có tội với các thế hệ cha ông vì đã không thực hiện được mong mỏi của các vị, và cũng có tội cả với các thế hệ con cháu sau này khi để đất nước ngày càng tụt hậu so với các nước khác trên thế giới.

Trên đây chỉ là một vài suy nghĩ về nhu cầu phải đổi mới toàn diện và triệt để về mọi khía cạnh để đưa đất nước nhanh chóng phát triển đi lên trong bối cảnh hội nhập với quốc tế như hiện nay. Dân tộc Việt Nam có một lịch sử chiến đấu chống ngoại xâm dũng cảm và oai hùng, bao thế hệ cha ông đã ngã xuống để bảo vệ cho chúng ta có một đất nước tươi đẹp, nhiều tài nguyên thiên nhiên. Con người Việt Nam nổi tiếng với nụ cười hiền hòa, đôi tay khéo léo và tinh thần ham học hỏi. Đất nước ấy, dân tộc ấy rất xứng đáng để có một vị trí cao trong cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Trách nhiệm to lớn này đặt lên vai tất cả mọi người Việt Nam, đặc biệt là trông chờ ở thế hệ trẻ, những người có đầu óc dám đổi mới, biết học hỏi, tiếp thu tri thức khoa học và công nghệ, tạo ra những giá trị độc sáng dựa trên tri thức và óc sáng tạo, đưa đất nước vững bước phát triển đi lên theo kịp với các nước tiên tiến trên thế giới. Chỉ có con đường đổi mới và sáng tạo không ngừng mới có thể đưa đất nước cất cánh đi lên, mang lại sự thịnh vượng, ấm no cho cả dân tộc, và giúp người Việt Nam có thể hãnh diện “sánh vai” cùng bạn bè năm châu, bốn biển, như ước vọng muôn thuở của cha ông ta. Mong rằng tương lai ấy sẽ không xa!