Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Tuesday, August 13, 2013

Vu Lan Bồn


Vu Lan Bồn

Rằm tháng bảy người ơi nên nhớ
Vu Lan Bồn - cứu độ mẹ cha
Cúi đầu kính lạy Phật Đà
Chỉ phép tế độ, quỷ ma nương nhờ...

Cúng cô hồn, tục xưa một thuở
Cầu siêu sanh, thất tổ cửu huyền
Nhớ gương hiếu hạnh Mục Liên
Thần thông, chẳng thể cứu liền mẹ đâu

Ác nghiệp cũ từ lâu khó gỡ
Phải nương nhờ hiệp lực chư tăng
Phép thần mới đủ công năng
Chiếu soi, bừng tỉnh, tối tăm ngục đài

Mong cho nhân thế hôm nay
Vu Lan nhớ đến ơn dầy song thân
Vì ta, cực khổ tấm thân
Vì ta, héo hắt tinh thần sớm hôm
Chớ sinh oán trách, dỗi hờn
Chớ làm cha mẹ héo mòn khổ đau
Dù cho gánh nặng hai đầu
Mẹ cha khắp chốn, cũng đâu đáp đền
Còn cha, còn mẹ hiện tiền
Hãy lo hiếu dưỡng, đáp đền nghĩa ân
Nếu như cha mẹ vãng phần
Làm nhiều công đức, thâm ân hướng về

Hiếu là đạo vượt biển mê
Trăng rằm tỏa sáng, nẻo về chơn tâm...

PQT
(Vu Lan - 2013)

Wednesday, July 24, 2013

Amartya Sen: Lương tâm của kinh tế

Mới đọc được 1 bài viết hay của nhà giáo Trần Hữu Dũng, xin copy lại chia sẻ cũng mọi người. Để suy nghĩ về bản chất của kinh tế học, sự phát triển và ý nghĩa cuộc sống.




Amartya Sen: Lương tâm của kinh tế
Trần Hữu Dũng

Đa số người ngoài ngành (và cả nhiều người trong ngành) thường nghĩ đến kinh tế như một khoa học giúp hoạch định những chính sách để quản lý, để phát triển, để tăng trưởng, để bình ổn. Những người có thiên kiến này sẽ ngạc nhiên khi đọc Amartya Sen, nhà kinh tế gốc Ấn Độ, người được Ngân hàng Quốc gia Thụy Điển trao tặng giải Nobel Kinh tế năm 1998. Ông là người châu Á đầu tiên được Nobel về ngành này.

Tuy đã đến tuyệt đỉnh danh vọng, Sen được ngưỡng mộ không chỉ vì những phần thưởng cao quý, nhưng còn vì kiến thức đa diện và quảng bác của ông, và vì lương tri của ông đối với những vấn đề xã hội, không những của quê hương ông mà còn của cả những quốc gia đang phát triển. Được trọng vọng trong xã hội trí thức cao nhất ở Tây phương (ông giảng dạy ở Cambridge từ năm 1971, và cũng có nhiều năm ở Harvard), Sen không bao giờ ngưng ưu tư về phúc lợi của những người bần cùng. Là một nhà kinh tế với kỹ năng toán logic vào hạng thượng thừa, ông cũng thấm nhuần triết học, Tây lẫn Đông. Là người có những đóng góp nền tảng cho kinh tế học hiện đại, Sen cũng hoài nghi về nhiều mặt của thứ kinh tế học này.

*
Từ nhỏ, Sen đã chứng kiến cũng như trải nghiệm những tai họa khó tưởng tượng. Năm 1943, khi Sen vừa lên mười, Bengal (quê ông, một tỉnh vùng đông bắc Ần Độ, nơi có mật độ dân số thuộc hạng cao nhất thế giới) bị một nạn đói khủng khiếp. Năm 19 tuổi, ông bị ung thư vòm miệng, và đã điều trị bằng xạ trị (rất thô sơ lúc ấy ở Ấn Độ) vô cùng đau đớn. (Hậu quả giai đoạn xạ trị này vẫn còn đến ngày nay: xương Sen bị dễ gãy, răng cỏ của ông đều hư). Như Sen kể lại sau này, chính sự đau đớn ấy đã cho ông mối đồng cảm sâu xa với những người cùng khổ. Ung thư làm ông cảm thấy bị ô nhiểm, loại ra ngoài xã hội, bất lực. Trước khi bị bệnh, những gì ông chứng kiến chung quanh đã làm ông kinh hoàng, nhưng dù sao vẫn là xảy ra cho “kẻ khác”. Chính ung thư của ông đã khiến Sen đồng cảm trọn đời với những người thấp cổ bé miệng, bị thiếu thốn, bệnh tật, đớn đau.

Nhưng cũng nhờ vượt qua được cơn bệnh hiểm nghèo ấy mà Sen đặt cho mình những mục tiêu mới. Trở lại trường, ông là một sinh viên ưu tú hàng đầu, đoạt tất cả mọi giải thưởng cao quý nhất, và được học bổng sang đại học Cambridge danh giá tột bực nước Anh.

*
Những năm đầu trong sự nghiệp, vào thập kỷ 1960, Sen chuyên về kinh tế học phát triển và có nhiều đóng góp đáng kể vào tiến trình công nghiệp hoá của Ấn Độ. Quyển sách đầu tay của Sen (Sự chọn lựa kỹ thuật, 1960) chỉ trích thể chế kế hoạch của Ấn Độ lúc ấy. Ông nhấn mạnh rằng có những định luật kinh tế bất biến mà mọi quốc gia đều phải tuân theo. Không kế hoạch nào, dù khôn khéo đến đâu, có thể đi ngược những định luật ấy.

Nhưng sau đó thì Sen bắt đầu suy nghĩ về những vấn để căn bản hơn. Khi tìm hiểu về nạn đói ở Bengal (mà số người chết có thể đến 4 triệu), ông khám phá một điều bất ngờ: Nạn đói ấy không phải vì mùa màng thất bát như vẫn tưởng nhưng vì chế độ chuyên chế lúc ấy! Đúng là người ta chết vì không có thực phẩm, nhưng họ không có thực phẩm chẳng phải vì cả nước không đủ thực phẩm cho mọi người, nhưng vì họ thất nghiệp, không có tiền mua (thêm vào đó là tình trạng lạm phát). Điều hệ trọng nhất là họ không có cách gì kêu ca được vì không ai đại diện cho họ, mà báo chí cũng thiếu tự do, do đó nhà nước không bị một áp lực nào để lo cho những người cùng khổ, thấp cổ bé miệng, ấy. Để kiểm chứng giả thuyết của mình, Sen tìm hiểu nguyên nhân nạn đói ở những nước khác, nhất là ở châu Phi, thì hầu hết cũng là vì xã hội thiếu dân chủ: thực phẩm không thiếu cho toàn xã hội, nhưng chính sự phân bố bất bình đẳng đã khiến hàng triệu người chết đói.

Sen là một trong những kinh tế gia tiên phong chỉ trích quan niệm phổ thông là có thể dùng GDP đầu người để đo lường phúc lợi xã hội. Sen viện dẫn những lý luận triết học từ Aristotle cỗ xưa, qua Hayek, và Rawls hiện đại để khẳng định rằng thước đo của một “xã hội tốt” là tự do, chứ không phải là sự thịnh vượng vật chất. Chính xác hơn, sự phồn vinh vật chất chỉ là điều đáng mong muốn như một phương tiện thực hiện tự do cho con người (căn bản nhất là tự do khỏi đói khát, bệnh tật). Sen khẳng định: tự do vừa là mục tiêu tối hậu, vừa là thành tố để phát triển kinh tế. Theo ông, những mục tiêu mà các nhà kinh tế thường cho là tối hậu: tăng trưởng kinh tế, tiến bộ công nghệ, ngay cả hiện đại hoá, phải được đánh giá bởi mức độ đóng góp của chúng vào tự do của con người.

*
Từ đầu thập niên 1970, Sen quay sang một hướng nghiên cứu mới, về lý thuyết phúc lợi xã hội, một ngành trong kinh tế học cực kỳ trừu tượng và lý thuyết. Chính trong lĩnh vực này mà Sen để lại dấu ấn khó phai.

Đặc điểm của lý thuyết tổng quát về phúc lợi xã hội của Sen là sự kết hợp quan tâm truyền thống của kinh tế học đối với mức sống vật chất và quan tâm truyền thống của triết học đối với tự do cá nhân và sự công bằng.

Nên nhắc lại rằng vào hai thập kỷ 1930-1940, những người theo chủ nghĩa tự do (libertarian) ở phương Tây thường quan ngại rằng phương Tây sẽ bỏ những cam kết theo đuổi chủ nghĩa tự do chính trị để theo đuổi an toàn kinh tế. Kế thừa truyền thống này, Sen lo ngại rằng, ở thế hệ tiếp theo, Ấn Độ và các nước đang phát triển đã hi sinh dân chủ để có được tăng trưởng kinh tế. Từ những nhận xét ấy, Sen đặt ra câu hỏi thật căn bản: Làm thế nào để giải quyết những xung khắc giữa những hành động xã hội (social action), chẳng hạn như để phát triển kinh tế, và giá trị cá nhân (individual rights) mà những người theo chủ nghĩa tự do cho là độc tôn.

Sen nêu ra ba câu hỏi. Thứ nhất, chọn lựa của một xã hội có phản ảnh sự chọn lựa của những cá nhân trong xã hội ấy không? Thứ hai, quyền tự do cá nhân có thể dung hoà với phúc lợi kinh tế không? Và thứ ba, lấy gì để làm thước đo mức độ công bằng của một xã hội? Đây là những câu hỏi cực kỳ “hóc búa” chứ không dễ như nhiều người tưởng, nhất là khi lời giải đáp phải thoả mãn một số định đề logic tối thiểu.

Vào đầu những năm 1960, khi Sen đi tìm giải đáp cho những câu hỏi ấy thì có hai luồng tư tưởng, dù khác nhau nhưng đều cho rằng sự xung khắc ấy không thể dung hoà được. Một trường phái, mà lãnh tụ là nhà kinh tế Friedrich Hayek, thì cho rằng không thể tin vào nhà nước, vì nhà nước sẽ bị một nhóm chuyên viên khuynh đảo, áp đặt ý muốn của họ lên ý muốn của những cá nhân khác trong xã hội. Bằng cách thay thế ý muốn của cá nhân bằng ý muốn của xã hội (như xác định bởi những chuyên viên này), nhà nước tước đoạt sự tự do cá nhân.

Luồng tư tưởng thứ hai đến từ một nguồn khá bất ngờ, qua tác phẩm cực kỳ thời thượng của nhà kinh tế Kenneth Arrow (cuốn “Chọn lựa xã hội và giá trị cá nhân”, 1963). Dùng những mệnh đề logic chặt chẽ, Arrow chứng minh (“định luật Arrow”) rằng không thể có một hệ thống bỏ phiếu nào có thể đưa đến một chọn lựa dân chủ. Viện dẫn “định luật Arrow”, nhiều người đã cho rằng đó là một lý do của chế độ độc tài.

Vì lôgic của Arrow không thể kiểm chứng bằng thực nghiệm, Sen phản biện Arrow trên chính sân chơi của Arrow: hoàn toàn trên phạm trù lôgic. Sen vạch ra rằng một trong những tiền đề của Arrow – rằng không thể so sánh phúc lợi của người này với người kia – là thiếu căn bản và không cần thiết, và nếu loại bỏ tiền đề này thì “định luật không thể” của Arrow trở thành “có thể”, nghĩa là qua bỏ phiếu, có thể tổng hợp những giá trị cá nhân thành một quyết định duy nhất của cộng dồng. Nói khác đi, có cách bỏ phiếu để đưa đến những quyết định được sự đồng thuận của toàn xã hội. Khám phá này của Sen đã mở đường cho những nhà kinh tế lý thuyết tìm kiếm những cách để thẩm định phúc lợi của con người tương thích với quyết định cộng đồng. Một trong những ứng dụng của nó là tìm cách đo lường sự nghèo khổ của con người trong xã hội.

Chính nhờ Sen mà các nhà kinh tế trở nên dè dặt hơn khi đánh đồng phúc lợi với GDP. Theo Sen, GDP không phản ảnh “cơ hội” kinh tế của con người, và chính số lượng cơ hội đó là đóng góp rất nhiều vào hạnh phúc của cá nhân, không kém gì số lượng của cải vật chất hiện có.

Nhiều học giả (như Eric Maskin, Nobel 2007) cho rằng tự do cá nhân và phúc lợi đôi khi xung khắc: muốn thêm cái này thì phải bớt cái kia. Sen bác bỏ ý kiến này. Theo ông, tự do là một cách để bảo vệ phúc lợi. Quyền được đọc bất cứ gì mà anh muốn (thay vì bị người khác bảo anh phải đọc cái gì), chẳng hạn, thường nâng cao thu nhập.

Chỉ trích chủ nghĩa vị lợi (utilitarianism) Sen lập luận rằng không thể lấy (tốc độ) tăng trưởng kinh tế để thẩm định lợi ích bởi nó không cho thấy những người thật sự thiếu thốn đang sung sướng hoặc khổ sở ra sao. Và cách đo dụng ích (utility) căn cứ trên sư ưa chuộng hiện tại của mỗi cá nhân cũng có thể đưa đến nhiều sai lầm vì người ta hay thích ứng nguyện vọng của mình tùy vào hoàn cảnh hiện có (chẳng hạn như một người nghèo có những ưa chuộng khác người giàu vì họ biết họ nghèo...)

Tuy coi trọng vấn đề dân chủ và tự do, Sen cũng nhìn nhận rằng phát triển kinh tế là một đòi hỏi cấp bách (và ông buồn rầu nhìn nhận rằng Ấn Độ đã thua kém Trung Quốc về mặt này). Cụ thể, vì coi trọng cả phát triển và dân chủ, Sen (và những nhà kinh tế tâm đắc với ông) tìm cách làm sao để phát triển mà không hi sinh dân chủ (như đang xảy ra ở nhiều nước). Sen cho rằng sự đánh đổi ấy (muốn thêm cái này thì phải bớt cái kia) là không thể chấp nhận được, bởi lẽ, theo ông, cả hai đều có giá trị tự tại.

*
Trong nhiều thập kỷ, tiếp cận của Sen đã bị chỉ trích bởi phe tả lẫn phe hữu. Vào những năm 1950, 1960, khi mà kế hoạch hoá kiểu Liên Xô là thời thượng trong giới kinh tế cánh tả thì Sen bị xem là người “phản đạo” . Nhưng sang những năm 1980, 1990 khi mà chủ nghĩa thị trường tự do (của phe hữu) lên ngôi thì chính chủ khảo giải Nobel đã tiên đoán: “Sen sẽ không bao giờ được Nobel”. Sen nhận Nobel năm 1998.

Chứng kiến sự sụp đổ của chính sách kế hoạch hoá kiểu Xô Viết cũ, Sen không còn tin là phát triển kinh tế cần đến ngoại viện, hoặc cần bảo hộ thương mại. Ông tin nhiều hơn vào vai trò của nội lực trong phát triển. Ông cổ vũ mở cửa cho thương mại và đầu tư nước ngoài, nhưng đồng thời nhà nước cũng phải trợ giúp thành phần có thu nhập thấp, nhất là về giáo dục, y tế và dinh dưỡng.

Trong quyển sách mới đây nhất của Sen (Ý niệm công lý, 2009), ông suy nghĩ thấu đáo về những khó khăn trong định nghĩa của “công lý” (theo Rawls, chẳng hạn, thì “công lý là công bằng”), và ông đưa ra định nghĩa của ông. Bàng bạc trong những lý luận lôgic của Sen là một tấm lòng luôn hướng về những người bần cùng, cô thế... Cũng như lúc trước ông đã dùng chính lôgic của Arrow để bác bỏ “định lý Arrow”, trong cuốn sách mới ra này Sen dùng chính tiếp cận triết học của Rawls để vạch ra những hạn chế của quan niệm về công lý mà Rawls khẳng định.

Ở Sen, ta thấy một trí thức (và Sen là một trí thức trong nghĩa tốt đẹp và chính xác nhất của danh hiệu này) mà cuộc sống luôn hướng về hạnh phúc và khổ đau của đồng loại, ông rất gần gũi với những âu lo căn bản nhất của con người (có gì căn bản hơn nhu cầu cơm ăn, áo mặc?), và ông tiếp cận vấn đề với cường độ trí thức cực kỳ trung thực và siêu việt. Sen là một “trí thức công” (public intellectual) đúng nghĩa, với những suy nghĩ cặn kẽ về nhiều vấn đề, ở nhiều lãnh vực – từ kinh tế, xã hội, triết học, đến những tranh chấp chủng tộc, hạt nhân.

Nhiều người cho rằng Sen không phải là một nhà kinh tế “thường”, theo nghĩa là ông không tham gia vào những tranh luận về chính sách kinh tế, thậm chí khó nói là ông thuộc trường phái “tiền tệ” hoặc môn đồ của Keynes (tôi đoán là Keynes). Nhiều người khác chỉ trích Sen là ông ôm đồm quá nhiều: từ nạn đói đến nạn phụ nữ chết sớm, đến vấn đề đã đa văn hoá và sự lan tràn vũ khí hạt nhân. Những chỉ trích này cũng có phần đúng. Nhưng kinh tế học cần những người như Amartya Sen. Dù, hiển nhiên, ông không phải là nhà kinh tế duy nhất quan tâm đến số phận những người nghèo, cô thế... nhưng ông hơn hẵn những người khác ở chiều sâu suy nghĩ.

Robert Solow, một “trưởng lão” trong làng kinh tế đương đại (và cũng đã được Nobel) đã gọi Amartya Sen là “lương tâm của kinh tế”. Đó không chỉ là vinh dự cho Sen nhưng có lẽ, hơn nữa, là vinh dự cho mọi nhà kinh tế.

Trần Hữu Dũng
17/12/2011

Monday, July 8, 2013

HÃY KHÓC ĐỂ CÓ THỂ XOA DỊU NỖI ĐAU CỦA NGƯỜI


HÃY KHÓC ĐỂ CÓ THỂ XOA DỊU NỖI ĐAU CỦA NGƯỜI

Mỗi người trong cuộc sống này
Hãy cảm thông nỗi khổ đầy trong nhau
Làm sao xoa dịu nỗi đau
Khi ta chẳng hiểu – với nhau ơ hờ ?

Nếu ta chẳng khóc bao giờ
Làm sao thấu cảnh vật vờ, thương đau ?
Nếu tim ta lạnh, chẳng đau
Làm sao hiểu được mong cầu thế nhân ?

Ngoảnh đầu, nhắm mắt, chẳng cần
Nghe lời xin xỏ, thẳng thừng xua tay
Óc, tim khép chặt từ đây
Cho rằng yếu đuối nếu ai mủi lòng
Con đường chánh đạo đã không
Ngày qua tháng lại sống trong sai lầm

Nỗi đau trỗi dậy trong tâm
Mở tung cánh cửa, khơi mầm tương lai
Lệ rơi thương cảm sâu dày
Sót thương nỗi khổ đong đầy mắt ai.

(Dịch từ thơ của Helen Steiner)

Friday, June 21, 2013

Những điểm khác biệt giữa nghề làm báo và nghề làm văn

Những điểm khác biệt giữa nghề làm báo và nghề làm văn


Làm báo và làm văn cùng là nghề cầm bút, cùng sống bằng ngòi bút. Những nhà văn nhà báo cùng được xếp chung vào hàng ngũ trí thức, kẻ sĩ của thời đại. Trong xã hội ta ngày trước, kẻ sĩ là một đẳng cấp cao trong xã hội :
Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên…
Trót sinh ra thì sĩ đã có tên,
Từ Chu Hán vốn sĩ này là quý…
(Nguyễn Công Trứ)

Đó là tầng lớp mà nhà cầm quyền nào cũng phải xem trọng, vì ngoài việc tốn công phu đào tạo dài ngày,(tốn kém ngân sách nhà nước ,ngân sách gia đình, mỗi cá nhân…) còn là bộ mặt ngoại giao, chính trị… của một đất nước. Muốn biết chính sách hoặc tiềm năng một quốc gia như thế nào, người ta cũng quan tâm đến sự đãi ngộ hoặc việc sử dụng tầng lớp trí thức ra sao ? Mặc dù là một nhà lãnh đạo quân sự chiến lược, một ông vua có tầm nhìn lớn, làm nên kỳ tích Vạn lý trường thành … để lại cho đời sau chiêm ngưỡng, nhưng Tần Thuỷ Hoàng cũng không thể nào bôi xoá vết nhơ trong lịch sử tội ác lớn nhất “phần thư khanh nho” (đốt sách chôn học trò).Vụ Thiên An môn xảy ra tại Trung quốc 38 năm trước, tuy đã được nhà cầm quyền Trung quốc che chắn, bưng bít… và tìm mọi phương kế giải độc dư luận trong nước và quốc tế, nhưng cuối cùng trong di chúc của lãnh tụ Đặng Tiểu Bình cũng phải thú nhận …trong nhựng lúc tỉnh táo tôi thấy vụ Thiên An môn có cách giải quyết tốt hơn, bớt đổ máu hơn và tôi đã nhìn nhận sự thật, thì các đồng chí lão thành cũng nên có dũng khí… Do đó vai trò của người trí thức hết sức quan trọng đối với xã hội, một phần của khuôn mặt bang giao quốc tế. Mặt khác, xã hội ta, từ xưa rất chuộng sự học , nó trở thành truyền thống, đạo thống của dân ta. Ngày xưa các cụ trọng sự học đến nỗi thấy tờ giấy có viết chữ (chữ nho), dặn con cháu không được buớc qua, bước qua là bất kính là không bao giờ học giỏi được… Mặc dù cũng có lúc đầu óc khôi hài của dân ta đã từng phản ứng nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ… Kẻ sĩ còn sống trong lòng người dân, cầm nắm thế đạo nhân tâm, là khuôn vàng thước ngọc của sự mẫu mực, là người âm thầm lãnh đạo cả một mặt trận văn hoá từ các tác phẩm lớn của nền văn chương bác học, đồng thời cũng là đồng tác giả các truyện khuyết danh, vô danh, văn chương bình dân… thẩm thấu trong mọi tầng lớp nhân dân. Trừ những người đã nổi tiếng, phần lớn họ là những chiến sĩ vô danh, sống âm thầm trong bóng tối, nhưng nuôi dưỡng cho dân chúng bao tình cảm cao đẹp, lòng yêu nước, ý chí quật cường, tinh thần cách mạng… Dù kẻ thù xâm lược lùng bắt gắt gao nhưng những vần thơ yêu nước đó vẫn được người dân cất giữ, trân trọng, kín đáo… để cho con cháu có ngày được đọc. Nhà văn ,nhà báo được được đánh giá cao cũng một phần bắt nguồn từ truyền thống đó.

Cùng viết về sự thật, cùng phải tôn trọng sự thật nhưng văn phong báo chí và tác phẩm văn chương có khác nhau :
Trước hết làm báo là phải bám sát sự kiện. Văn báo chí luôn phải ưu tiên nói tới sự kiện. Dù bài báo có thể giải thích một sự kiện hoặc đôi khi bày tỏ chính kiến trước sự kiện đó. Nhưng yêu cầu trước hết là phải phản ánh trung thực, chính xác sự kiện.
Bài báo phải có tính thời sự, phổ biến kịp thời mọi thông tin. Nhà văn cũng viết về thời sự, nhưng câu chuyện, chủ đề … có tính lâu dài hơn, thời sự chậm hơn, không cần bám sát sự kiện, chỉ cần nắm được cốt lõi của vấn đề, có thể hư cấu và giả thiết, để câu chuyện thêm phần hấp dẫn... để xây dựng bài của mình.
Kế đến là tính chất giáo dục, sư phạm. Nhà báo khi cầm bút đưa tin hoặc viết bài phải hình dung được phản ứng của người đọc, xem người đọc tiếp nhận bản tin, bài báo… như thế nào. Do vậy, nhà báo phải chọn một văn phong sáng sủa, dễ hiểu, từ ngữ sử dụng phải có tính giáo dục, phù hợp với khả năng tiếp nhận, thông suốt của người đọc đối với nội dung thông tin hoặc bài của mình.
Trường hợp này đối với nhà văn cũng có yêu cầu tính giáo dục, nhưng không bó buộc. Nhà văn có thể chọn bút pháp riêng, viết lạ hơn, hiểm hóc hơn, văn phong cầu kỳ hơn, có sắc thái riêng… cũng không sao vì độc giả mặc nhiên cho phép, vì tính cách viết văn cho phép.
Và đặc điểm thứ ba về văn phong báo chí là đặc trưng mà các nhà ngôn ngữ học gọi là chức năng “kiểm thông”(phatique). Đây là chức năng của những từ như “alô” khi nói chuyện điện thoại hay “ủa, vậy sao?” “ờ thì…” để duy trì mạch liên lạc với người đọc, để họ không bỏ rơi bài của ta khi đang đọc. Người ta thể hiện bằng nhiều cách đa dạng như đặt tít, chạy kiểu chữ ,… Nhưng nếu lạm dụng sẽ rơi vào các lỗi khó lường. Chúng ta có thể không tán thành với các tít giật gân chạy trên một tờ báo nọ của TP.HCM “ Bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo lừa đảo bị truy tố”. Đọc nội dung bài báo thì ta hiểu có ba kẻ lừa đảo đã phạm tội và bị bắt. Nhung chúng ta vẫn cảm thấy xót xa, tự nghĩ nhà báo không nên viết như thế, có một điều rất bôi bác, tuỳ tiện… khi nhà báo không cân nhắc từ ngữ, không biết rằng trong đời sống xã hội thì ở đâu cũng có hiện tượng “con sâu làm rầu nồi canh”. Cách nay gần một tháng, lại có một bài báo khác viết “Ngày nào còn A,B,C thì còn mua bán bằng cấp”, thật là một lập luận ấu trĩ, vơ đũa cả nắm. Chương trình đào tạo tiếng Anh tại chức theo tiêu chuẩn A,B,C là một chương trình được thực hiện lâu dài, công phu của Bộ Giáo Dục. Việc lạm dụng quyền hành, làm sai là của cá nhân, của một nhóm người. Ai vi phạm thì pháp luật xử lý. Việc kiểm tra là của cả guồng máy giáo dục và hệ thống thanh tra. Kẻ nào làm sai cứ bắt tội và xử lý theo luật. Không được đánh đồng như thế. Biết bao đơn vị đào tạo đúng qui định của Bộ, công phu, đầy đủ thời gian ; tổ chức thi cử nghiêm túc, công minh … ta không có một lời khen ngợi, hay lưu tâm đến những người chiến sĩ vô danh, cao quí đó! Mà nay có vài cá nhân sai phạm, đã vội ầm ĩ lên án bằng những cái tít giật gân làm xôn xao dư luận khắp nơi, làm hoang mang cả thầy trò, khi nghe tin đề nghị xoá bỏ chương trình A,B,C. Thật vô tình khi kết luận võ đoán! Tính giáo dục của mỗi bài báo quan trọng như thế!
Nhà văn không xem nặng vấn đề “phatique”, mà chủ yếu là cốt truyện, diễn biến tâm lý, và mạch văn. Điều đó duy trì sự theo dõi say mê của độc giả, hơn là sự gây chú ý tức thời.
Điều đáng lưu ý nữa là tính khách quan cùa bài báo. Ta cũng nên phân biệt tính khách quan “hình thức” thường được thể hiện máy móc qua việc trích nguyên văn lời phát biểu hay trả lời phỏng vấn (trong ngoặc kép); để trình bày những quan điểm trái ngược nhau; đưa ra những sự kiện và con số thống kê, xem như những con số và sự kiện đó tự nói lên nội dung.
Tính khách quan mang tính “tổ chức” thường là những thông tin có nguôn gốc từ những giới chức thẩm quyền (thí dụ số người tham gia biểu tình theo số liệu của Sở cảnh sát…; số người nhiễm HIV. thì theo số liệu Sở Y Tế thành phố)… phương cách này cũng sắp xếp trật tự bài viết, cấu trúc bài để tách riêng phần những lời bình, những nhận định ra khỏi phần tường thuật các sự kiện.
Hoặc bài báo sử dụng các “lý lẽ thông thường” tức là sử dụng những ý kiến , nhận định đã có từ trước mà mọi người đều cho là đúng, tránh đưa những ý tưởng khác với ý tưởng của đa số dân chúng; ưu tiên đưa ra những ý mà ai ai cũng thấy là đúng, là hiển nhiên, không cần bàn cãi nữa … Ba tính cách này, nhà báo thường sử dụng để đảm bảo tính khách quan của bản tin.
Nhưng cũng có ý kiến cho rằng sở dĩ áp dụng phương pháp này bởi vì nhà báo né tránh những chỉ trích , những khiếu nại có thể xảy ra với bản tin.
Nhà văn không bị câu nệ bởi tính khách quan, thường chú trọng đến suy nghĩ chủ quan dựa trên lập luận riêng, đánh giá riêng; xoáy sâu vào những ngóc ngách khuất tất… của vấn đề nhưng cũng mang cùng mục đích thuyết phục người đọc công nhận và chia xẻ. Sự khác nhau ở chỗ nhà báo thì sử dụng phương pháp khách quan, nhà văn thì sử dụng phương pháp chủ quan.
Tính thời sự cùa bài báo: Do bị thúc bách về thời gian gấp rút (đối với nhật báo) thời gian nộp bài không quá vài tiếng đồng hồ , nên phòng viên thường không có thì giờ suy nghĩ nhiều đành phải dùng một số sự kiện đã xảy ra để giải thích cho sự kiện mới , hoặc chỉ dừng lại ở sự so sánh đơn giản mà thôi. Yêu cầu bản tin phải ngắn gọn (không quá vài trăm chữ) cũng là một áp lực đối với nhà báo không dám đi sâu vào phân tích, sợ dài dòng quá; đành chấp nhận lối giải thích chung chung lúc nào cũng đúng. Chính áp lực lúc nào cũng tỏ ra có tính khách quan, và đúng sự thật đôi khi cũng khiến nhà báo lập luận theo khuôn mòn lối cũ (mọi người dễ chấp nhận); các áp lực về thương mại nhằm báo bán chạy hoặc mở rộng thị phần… hoặc cả hai yêu cầu đều góp phần khiến bài báo ít có phân tích chiều sâu.

Tính thời sự của nhà văn mang tính lâu dài hơn. Cùng một vấn đề nóng bỏng của xã hội cần phải đề cập nhưng nhà văn không bị các áp lực kể trên mà chủ yếu là áp lực bức xúc tự trong lòng, cần phải viết ra do chính nhà văn suy nghĩ và nghiền ngẫm để xây dựng bài hoặc tác phẩm sao cho đạt hiệu quả truyền thông tốt nhất. Do đó văn có giá trị sẽ thẩm thấu sâu hơn bài báo.

Trên đây chỉ là những suy nghĩ mang tính hình thức mô tả sự khác biệt văn phong giữa nghề văn và nghề báo. Thực ra ranh giới này cũng khó phân biệt rạch ròi. Nhà văn cũng có lúc viết báo để bày tỏ bức xúc của mình trước điều chướng tai gai mắt; nhà báo cũng có lúc viết văn để trút bầu tâm sự u uất, day dứt bao lâu mà chưa nói được, cái hoài bão lớn trong lòng cần phải viết ra, để lại đời sau… Phân tích khái quát điểm khác biệt để hiểu tính cách mỗi thể loại có những yêu cầu khác nhau, để người cầm bút viết đúng phong cách sân chơi của mình, đáp ứng đúng yêu cầu về thể loại thế thôi.

Trung Ngôn

Thursday, May 23, 2013

Tự do tư tưởng trong đạo Phật

Rằm tháng 4 đã về, để đón mừng ngày đản sinh của Đức Phật, không có gì hay bằng đọc lại những giáo lý mà ngài đã giảng dạy. Chúng ta hãy cùng chiêm nghiệm và đắm mình trong ánh sáng trí tuệ và lòng từ bi vô hạn của ngài, để có thể hiểu và áp dụng các giáo pháp đó vào cuộc sống hiện tại, nhằm mang lại lợi lạc cho bản thân và xã hội. 
Một điều mà ai cũng công nhận, đó là tư tưởng tự do trong giáo lý nhà Phật. Ngài không trói buộc các đệ tử trong một chủ thuyết, hay 1 đấng thần linh nào cả như các tôn giáo hay các phe phái chính trị thường làm đối với tín đồ của mình. Khi 1 đệ tử hỏi ngài phải chọn lựa tôn giáo nào để theo trong vô số tôn giáo, ngài trả lời rằng, mỗi người hãy dùng lý trí của mình để soi xét sự đúng, sai, tốt, xấu, thiện, ác của mỗi tôn giáo, chủ thuyết, rồi hãy tự quyết định con đường mình đi. Trong giáo pháp của đức Phật, không có ai ban phúc giáng họa cho chúng ta cả, mà chính những suy nghĩ, lời nói, hành động của mình tạo ra nghiệp và nghiệp đó đã ảnh hưởng trở lại cuộc sống của mình, y như là quy tắc phản lực trong vật lý học vậy.
Hiểu được tư tưởng tự do này, mỗi người sẽ có 1 cách hành xử phù hợp trong cuộc sống. Ví dụ, mình sẽ không trói buộc mình vào những chủ thuyết mà số đông cho là đúng (nhưng thực chất chỉ mang đến đau khổ và mất mát cho bản thân và xã hội), mình có thể đánh giá đúng con người và sự việc bằng 1 nhãn quan độc lập, thay vì nhắm mắt kết luận theo thành kiến hoặc ý kiến của cấp trên (như trong trường hợp bản án sai lầm đối với 2 em SV. yêu nước Phương Uyên & Nguyên Kha gần đây)... 
Cuối cùng, mỗi người hãy tự nhắc nhở mình về lời dạy cuối cùng của Đức Phật trước khi nhập Niết bàn, đó là "Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi!" - Hãy suy nghĩ bằng trí óc của mình và hãy bước đi bằng đôi chân của mình, bạn nhé! Chúc tất cả một mùa Phật đản an lạc và hạnh phúc!
------
Tự do tư tưởng trong đạo Phật
 
Lời khuyên của Đức Phật là không nên tin vào lý thuyết, thờ cúng và các trưởng giáo. Thực sự, bất cứ lúc nào chúng ta cũng phải làm chủ chúng ta qua lòng tự tin. Chúng ta đừng bao giờ chịu khuất phục phẩm giá hay sở thích của chúng ta.
Đức Phật cực lực ủng hộ giáo pháp về lòng tự tin, thanh tịnh, nhã nhặn, giác ngộ, an lạc và tình thương đại đồng. Ngài nhấn mạnh sự cần thiết của hiểu biết vì lẽ không hiểu biết, phần tâm linh bên trong đưa đến trí tuệ không thể đạt được.
Ngài nói: "Nếu quí vị muốn chấm dứt khổ đau, sợ hãi, hãy triển khai kỷ luật, từ bi và trí tuệ". Lúc nào chúng ta cũng phải để cho đầu óc chúng ta tự do suy nghĩ và hiểu rõ không cần ỷ lại vào ảnh hưởng bên ngoài. Kẻ nào trông cậy vào người khác thì chẳng khác trẻ nít.
Chúng ta hãy theo gương Đức Phật, Đức Phật nói khi Ngài thiền định để đạt giác ngộ thì không đấng thiêng liêng nào đến thầm thì bên tai Ngài để khám phá những bí mật giấu kín của sức mạnh tinh thần. Không một ai cho ngài một điều răn hay giới luật nào.
Ngài nói: "Ta không bao giờ có một vị Thầy nào hay một thần linh nào dạy ta hay bảo ta làm cách nào để đạt được giác ngộ. Cái mà ta thành công là do sự cố gắng, năng lực, kiến thức, thanh tịnh của chính ta để đạt được trí tuệ tối thượng”.
Đó là lý do tại sao Ngài nói trí tuệ “trỗi lên” nơi Ngài khi Ngài giác ngộ. Trí tuệ tiềm ẩn trong tất cả chúng ta. Chúng ta chỉ cần tạo điều kiện đúng, trí tuệ sẽ phát sinh.
Tự do tư tưởng, tự do tìm hiểu phát xuất từ nội dung tinh thần và triết lý của Phật Giáo. Không có một tổ chức tôn giáo nào trên thế giới lại tương tự, song hành như vậy. Không bắt buộc, không cưỡng bách để tin theo hay chấp nhận giáo pháp.
Đường hướng của Phật Giáo là thấy và hiểu. Nó là thái độ khoa học của tâm trí. Giáo pháp vể triết lý căn bản dạy trong Phật Giáo càng ngày càng minh chứng vững vàng bởi những khám phá mới của khoa học.
Phật Giáo ủng hộ lòng tự tin, tự kiềm chế, tự tín nhiệm, tự thanh tịnh cho con người trong xã hội.
Một đặc tính đặc biệt của Phật Giáo là tôn giáo này liên kết chặt với các lý tưởng dân chủ. Các cuộc bàn cãi công khai phải được khuyến khích, cả đến những quan điểm trái ngược cũng được phát biểu đưa đến tâm trí được mở rộng và sung mãn. Những giới của các sư nam và sư nữ được cấu tạo hoàn toàn theo các nguyên tắc dân chủ.
Việc này làm theo Pháp khám phá ra bởi Đức Phật tối thượng, một đấng cởi mở và uy hùng can đảm khích lệ các đệ tử không chấp nhận cả đến những gì Ngài tuyên bố mà không khảo sát và xác tín.
Thực ra, Đức Phật đã tuyên bố Pháp là thầy của Ngài và tất cả những gì Ngài làm là để tìm ra. Chân lý của Pháp bao quát đã bị chìm dắm nơi con người vì ngu si. Chúng ta phải để cho tâm trí chúng ta được tự do suy nghĩ không thành kiến và không lệ thuộc.
Trước khi Ngài qua đời, Ngài dặn dò những lới cuối cùng “Hãy tìm nơi nương tựa ngay nơi các con”. Tại sao sau 45 năm hoằng pháp, Ngài lại thốt ra những lời như vậy ? Tại sao Ngài không khuyên mọi người tìm sự cứu rỗi nơi Ngài.
Cái Ngài muốn nói là chúng ta không nên tìm sự cứu rỗi ỷ lại vào người khác. Chúng ta phát triển lòng tự tin ngay nơi chúng ta. Lời khuyên răn thật tuyệt diệu và cao thượng biết bao! Có lẽ bây giờ quí vị có thể hỏi: "Tại sao chúng tôi nói “Buddham saranam gaccami"? (Tôi đến với Đức Phật để nương tựa)
Khi chúng tôi nói như trên không có nghĩa là chúng tôi ỷ lại vào Đức Phật. Chúng tôi muốn nói là nếu chúng tôi theo những phương pháp dạy bởi Đức Phật, chúng tôi sẽ mở mang lòng tự tin để đạt được sự cứu rỗi. Chắc chắn chúng tôi không nghĩ một ngày nào Đức Phật sẽ đến và mang chúng tôi đến “Thiên Đường” trong một chuyến bay vinh quang.
Một số người nói rằng Đức Phật chỉ là một người bình thường không phải là một Thượng đế, tại sao dân chúng lại theo Ngài? Những người này không hiểu rằng người Phật tử không trông chờ sự cứu rỗi từ nơi Đức Phật mà là thực hành phương pháp cao thượng do Ngài dạy.
Phương pháp của Đức Phật ngay từ lúc khởi đầu là chúng ta phải làm thế nào để phát triển lòng tự tin qua việc rèn luyện tâm trí của chúng ta. Tự mình cố gắng, tự mình thực hiện, đó là con đường duy nhất tiến đến sự cứu rỗi.
Bất cứ ai cũng có thể đứng trước Đức Phật trong tư thế một người có phẩm cách chứ không phải trong tư thế một người nô lệ. Với hy vọng và tự tin, một người có thể quyết định vận mạng của chính mình.
Đức Phật hoan nghênh quí vị nếu quí vị giữ lập trường như một con người có phẩm cách. Nhưng quí vị phải sẵn sàng tỏ ra phải chăng và chịu nghe các lý luận có ý thức trái ngược với niềm tin của quí vị nhưng lý luận này đáng được chú ý đến. Đó là thái độ của một người hiểu biết.
Khi Ngài gần tịch diệt, rất nhiều bậc quyền quí, thái tử, tộc trưởng, và cả đến những thánh chúng với các vòng hoa đến gặp Ngài để tỏ bày lòng tôn kính của họ với Ngài, nhưng Đức Phật sai Anan, thị giả của Ngài, nói với họ rằng nếu họ muốn tỏ lòng tôn kính Ngài, họ chỉ việc theo đúng giáo lý của Ngài, vị thầy của họ.
Trên đây cho thấy Ngài không muốn cá nhân Ngài được vinh danh hay đòi hỏi một sự phục tùng tuyệt đối cho uy quyền của Ngài.

(Nguồn: http://www.phattuvietnam.net/) 

Wednesday, May 15, 2013

Kỷ niệm 50 năm Bồ tát Quảng Đức tự thiêu (1963 - 2013)





Một mùa Phật đản nữa lại sắp về, nhân loại cùng nhau hân hoan kỷ niệm ngày sinh của 1 bậc giác ngộ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Người đã khai sáng đạo Phật và đưa ra những giáo pháp nhiệm màu, giúp khai mở tâm trí nhân loại, để đến hôm nay những đóa hoa trí tuệ và tình thương vẫn tiếp tục nở ngát trên địa cầu này.


Cũng vào mùa Phật đản cách đây 50 năm, trên mảnh đất Việt Nam, đã xảy ra 1 biến cố rất lớn làm chấn động lương tâm thế giới liên quan đến Phật giáo. Đó là việc tự thiêu của HT. Thích Quảng Đức  (mà sau này mọi người đều suy tôn là Bồ tát) để phản đối chính sách đàn áp tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, nhằm thức tỉnh nhà cầm quyền đang đắm chìm trong vô minh, sân hận. Sự kiện này góp phần dẫn đến sự sụp đổ của chế độ gia đình trị họ Ngô vào cuối năm 1963.

Bức hình chụp ảnh Bồ tát Quảng Đức tự quẹt diêm để thiêu đốt thân mình cho đến nay vẫn là 1 trong những bức ảnh làm lay động mạnh mẽ lòng người, và có sức mạnh thức tỉnh nhiều người.

“Có những phút làm nên lịch sử,
Có cái chết hoá thành bất tử,
Có những lời hơn mọi bài ca,
Có con người như chân lý sinh ra….”


Nhà thơ Tố Hữu đã viết những dòng thơ này để ca ngợi con người liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, nhưng riêng tôi lại muốn mượn những lời thơ này để nhận định và tán thán công đức Bồ Tát Thích Quảng Đức, người đã trọn đời âm thầm hoằng dương chánh pháp, từ các tỉnh miền Nam Trung bộ vào các tỉnh miền Nam, qua cả đến Cambodia, Lào và Myanmar, Miến Địên … để tu học và hoằng pháp độ sanh.

Đời Ngài là một tấm gương mẫu mực về đạo hạnh, đi tu từ năm lên 7, theo khổ hạnh đầu đà (khất thực), âm thầm xây dựng  và trùng tu 31 ngôi chùa : 14 ngôi chùa ở miền Trung và 17 ngôi chùa ở miền Nam.

Nhưng tấm gương phi thường của Ngài  chỉ xuất hiện vụt lên dữ dội, trong những phút giây lịch sử, trong cuộc đấu tranh sống còn của Phật giáo năm 1963,  như đứng vụt dậy từ lòng đất, trong hình ảnh một vị Bồ Tát tùng điạ dũng xuất  ở Phẩm thứ 15 của Kinh Pháp Hoa đã nói.

Cái chết của Ngài như làn sóng điện lan truyền  khắp năm châu, hình ảnh của Ngài được đăng tải trên hầu hết các báo ở Âu Mỹ, nhiều bình luận gia đã xem sự hy sinh của ngài như tiếng chuông báo tử cho chế độ nhà Ngô. Từ đó dẫn đến cuộc lật đổ chế độ bạo quyền, kỳ thị tôn giáo … của các tướng lãnh SàiGòn (1/11/1963), chấm dứt một mùa pháp nạn của Phật giáo Việt Nam. 

Hình ảnh của Ngài ngày nay là biểu tượng cho tinh thần vô úy, cho sức mạnh đấu tranh Phật giáo, tô thắm thêm nét son vào trang sử đẹp của Đạo Phật và dân tộc Việt Nam.

Wednesday, May 8, 2013

Không có thời giờ...

Dạo này bận rộn nhiều việc, đôi lúc không có thời giờ để lang thang đọc tin tức và cập nhật blog. Càng bận rộn, càng thấy ý nghĩa của sự thảnh thơi, và càng trân quý những giây phút mình có thể sống cho riêng mình, lang thang trên facebook, hay thả hồn theo áng mây trời và làm thơ... Buồn buồn search trên google từ khóa "bận rộn" và đọc được bài dưới đây của BS. Đỗ Hồng Ngọc, một cây bút có nhiều bài viết thú vị mà mình đã từng đọc trên Tạp chí Văn hóa Phật giáo. Xin phép copy lại ở đây và chia sẻ cùng mọi người.

---

Người ta phỏng vấn một bà gìa gần 90 tuổi rằng nếu được sống lại cuộc đời đã qua một lần nữa, bà sẽ sống như thế nào?

- “Nếu được sống lại cuộc đời đã qua lần nữa- bà già nói- thì tôi sẽ dám…phạm nhiều sai lầm hơn. Tôi sẽ ngờ nghệch hơn là tôi đã ngờ nghệch trong cuộc đời này. Tôi sẽ thảnh thơi hơn, linh hoạt hơn. Tôi sẽ coi ít thứ nghiêm chỉnh hơn. Tôi sẽ trèo núi lội đèo nhiều hơn, bơi lội nhiều hơn…Tôi sẽ ăn nhiều…kem hơn. Dĩ nhiên tôi sẽ gặp nhiều rắc rối hơn nhưng tôi sẽ thực tế hơn là chỉ mơ mộng. Tôi sẽ bớt…lành mạnh hơn. Ôi, tôi đã có những khoảnh khắc của đời mình và tôi muốn có nhiều hơn những khảnh khắc đó, cái nọ nối cái kia, cái nọ tiếp cái kia thay vì tôi cứ sống để chờ đợi…Nếu tôi được sống lại cuộc đời đã qua lần nữa tôi sẽ đi chân không nhiều hơn, sẽ bớt mang theo dù và dầu nóng, bình thủy các thứ…Tôi sẽ hái nhiều hoa cúc hơn…”.

Thỉnh thoảng có lẽ ta cũng nên tự hỏi mình một câu như vậy. Có phải ta cũng thường sống trong nhớ tiếc hoặc đợi chờ, mà quên đi cái quà tặng quý báu của cuộc sống chính là sự hiện diện của ngày hôm nay, của giây phút này, của ở đây và bây giờ. Tiếng Anh có một từ khá tuyệt: present, vừa có nghĩa là hiện tại, sự hiện diện, có mặt, lại vừa có nghĩa là món quà. Ta nghe nơi này nơi khác người ta luôn nói, không có thì giờ, không có thì giờ. Đến nỗi một nhà thơ phải kêu lên:

…Không có thì giờ!
Chim lấy đâu mà về tổ.
Tôi lấy đâu mà làm thơ.
Em lấy đâu mà đọc những bài thơ tôi sắp viết!
(Nguyên Sa).

Tiếng chim và khế ngọt vẫn có đó, ánh nắng và sóng biển vẫn có đó, đèo cao và suối mát vẫn có đó, nhưng…hãy đợi đấy, còn phải dành thì giờ để nhớ nắng hôm qua, mưa năm nọ, tiếng chim ngày cũ, rồi còn dành thì giờ để mong ngóng tương lai, sống trong tương lai như cô nàng Perrette mang bình sữa ra chợ! Ta chờ… lớn. Chờ thi đậu. Chờ thành đạt. Chờ có tiền. Chờ cưới vợ. Chờ đẻ con. Chờ con lớn…Chờ con thi đậu. Cứ thế. Cho đến một hôm thảng thốt: “Rồi tàn mùa xuân, rồi tàn mùa hạ, một ngày đầu thu… “ (TCS). Mùa xuân sao không đi hái lộc, mùa hạ sao không dẫn bầy em nhỏ đi tắm sông? “Hạnh phúc rất đơn sơ” vậy mà Khổng Tử suốt đời quần quật chỉ mong được thế đôi lần! Quả thật chúng ta thường sống với dĩ vãng, một thời đã qua hoặc sống với tương lai, một thời chưa tới. Còn hiện tại thì tối tăm mặt mũi; không có thì giờ! Không kịp ăn sáng, không kịp tắm (không kịp thay đồ?). Hộc tốc. Luôn luôn hộc tốc. Nhai ngoàm ngoằm. Đi vội vàng. Thở hào hễn. Và hùng hục. Lâm Ngữ Đường hơn nửa thế kỷ trước đã chê người Mỹ có ba cái tật xấu là luôn muốn tăng hiệu năng, muốn đúng giờ và muốn thành công. Ông nói: “ Họ luôn cau có và quạu quọ vì ba cái tật đó đã cướp đi của họ sự thư nhàn, lại còn làm cho họ luôn bị căng thẳng thần kinh vì luôn cầu toàn trách bị! Viên chủ bút Mỹ lo bạc đầu vì muốn không có một lỗi in nào trong tạp chí của ông ta, còn viên chủ bút Trung Hoa (dĩ nhiên, cách đây hơn nửa thế kỷ!) khôn hơn, để cho độc giả có cái thú tìm ra được ít nhiều lỗi trên báo! Đời sống bây giờ biến người ta thành cái…đồng hồ. Người Mỹ sống như một học sinh tiểu học, giờ nào việc đó, từng giờ từng phút “. Rồi ông kêu lên: Đời sống mà như vậy thì còn giá trị gì nữa (Sống đẹp, LNĐ, bản dịch Nguyễn Hiến Lê). Ngày nay thì các “tật xấu” đó đã toàn cầu hoá, đã trở thành bệnh của thời đại, đến nỗi bây giờ người ta bị cao huyết áp, bị tim mạch, bị trĩ, bị bón….cũng vì không có thì giờ! Nguyễn Công Trứ nói: “So lao tâm lao lực cũng một đàn/ Người trần thế muốn nhàn sao được?” Ý ông là chỉ có tiên mới sướng. Nhưng bây giờ ta cũng có tiền rồi, mà có tiền thì mua tiên cũng được quá đi chứ. Tiện nghi ngày càng cải thiện. Đằng vân giá võ, thiên lý nhãn, thuận phong nhĩ, thần giao cách cảm không thiếu thứ gì! Bấm cái nút gặp ngay người trong mộng. Trò chuyện với người cách xa nửa vòng trái đất như đang ngồi trước mặt…Thế mà vì sao ta không được “sướng như tiên”? Có lẽ là do cái nhu cầu giả tạo cứ ngày càng dày đặc thêm, cứ nhồi nhét mãi rồi thì đến một lúc tưởng là nhu cầu thật. Đẻ con thì phải đẻ mổ, chọn giờ để mong sau này con được làm vua. Ai cũng làm vua cả thì ai sẽ là thường dân cho vua trị vì? Nhưng vua đâu chẳng thấy chỉ thấy nhiều trẻ thiếu oxy não, liệt thần kinh, bị tâm thần… Các thứ sữa dành cho trẻ con bây giờ thì phải có chất tạo… thông minh. Làm như xưa nay không có các sản phẩm đó thì thế giới chỉ toàn người ngu dốt!

Cho nên Tô Đông Pha mới buông thuyền sông Xích Bích, Bạch Cư Dị mới xuống ngựa dừng chèo ở bến Tầm Dương, và Nguyễn Công Trứ mới… mơ ước:

Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch
Tiêu dao nơi cùng cốc thâm sơn
Nào thơ nào rượu nào địch nào đờn
Đồ thích chí chất đầy trong một túi…
(Kẻ sĩ)

Bây giờ “đồ thích chí” ta còn có thể chất đầy “trong một xe” đời mới, chỉ “không có thì giờ!” thôi vậy!

BS Đỗ Hồng Ngọc

Friday, April 19, 2013

Thơ Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nhân ngày Nghỉ lễ Giỗ tổ Hùng Vương, đưa vợ con về quê chơi. Rảnh rỗi, tận hưởng không khí thanh nhàn ở miền quê, mới cảm được thú vui thanh nhàn của người xưa. Tìm đọc và post lại bài Cảnh Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm để chia sẻ niềm vui đó với mọi người.

Cảnh Nhàn

Một mai, một cuốc một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao
(BẠCH VÂN QUỐC NGỮ THI)

Chú Thích :
Mai : dt, một loại nông cụ như xẻng,cuốc dùng để đào lỗ, xúc đất.
Chốn lao xao : nơi ồn ào, huyên áo, chỉ cảnh xã hội đông đảo, bon chen danh lợi…
Măng trúc : dt, măng tre. Giá : mầm đậu tươi non do ngâm ủ đậu xanh mà thành dùng để làm rau.

Bình Giảng :
Về các bài thơ tả cảnh nhàn xưa của các bậc tiên nho, thì đây là bài tả cảnh nhàn một cách rõ rệt, cụ thể nhất. Ta đã từng thấy các bài cảnh nhàn của danh thần Nguyễn Trãi khi lui về qui ẩn ở Chí Linh. Nhưng ở đây, ta không thấy nỗi buồn chán của kẻ trượng phu bất mãn vì thân thế hay thời thế. Tác giả đã mô tả cảnh nhàn với niềm vui thanh thản, an lòng và không còn vọng động. Ta cũng biết rằng tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà nho hạnh đạt, được triều đại nhà Mạc hết sức trân trọng, ưu đãi, song vì thời thế có lúc không thuận lợi, đạo khó hành, nên về ẩn cư nơi thôn dã. Ngoài ra ông lại là người học rộng am hiểu Kinh Dịch, hiểu lẽ xuất xử , giỏi văn chương, sống giữa buổi loạn ly. Khuynh hướng an nhàn là điều dễ hiểu. Cái khí vị toát lên trong thơ ông là sự điềm tĩnh, hiền hoà, thanh thản của một nhà nho tiên phong đạo cốt, từng trải việc đời, nhưng xem danh lợi như áng phù vân. Đó cũng là hình ảnh đẹp về con đường xuất xử .
Bố cục bài thơ cũng là bố cục theo Đường luật, thất ngôn bát cú :
Câu 1-2 : Công việc nhàn hạ của tác giả.
Câu 3-4 : Vui thích bằng lòng với cảnh an nhàn.
Câu 5-6 : Cuộc sống bình dị, thanh đạm trong cảnh thanh nhàn.
Câu 7-8 : Phong độ thoát vòng tục luỵ của người ở ẩn.

Bài thơ toát lên được cuộc sống khoáng đạt của một ẩn sĩ sống thanh thản giữa tạo vật thiên nhiên, như bản đàn tuyệt diệu Trang Tử Nam Hoa kinh. Chữ nhàn được thấy ở đây không chỉ là cái nhàn vật chất, hưởng thụ, làm tê liệt hình hài, là cái hình thức tầm thường, thô thiển của chữ nhàn, mà cái nhàn ở đây là sự thanh thoát ở tinh thần, không màng đến lợi danh, không màng đến sự sống xa hoa với “tâm vô dục vô cầu”, vì những trò đời được mất hơn thua chỉ là áng phù vân, là giấc mộng nam kha :
Rượu đến gốc cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao
Ngay mở đầu bài, tác giả đã nêu bật được hình ảnh một cuộc sống ở nông thôn, giữa đất trời cao rộng, cũng có vẻ khá bận rộn khi làm vườn, trồng hoa, khi câu cá… nhưng lại rất tự do khoáng đạt :
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Giữa cuộc sống sôi động, hơn thua và huyên náo ở ngoài kia, tác giả tự nhận mình là người dại, để phân biệt với bao kẻ khôn ngoan đang lặn hụp trong trường danh lợi :
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Cái chốn lao xao ấy, chốn của những kẻ khôn ngoan, ta không còn bận lòng đến nữa để vui lòng làm kẻ dại về chốn không lao xao, yên bình và phẳng lặng, để sống hoà cùng thiên nhiên, mùa nào thức nấy, theo từng nhịp độ của thời gian “xuân sinh hạ trưởng thu liễm đông tàng” :
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Tác giả đã để lòng mình hoà với thiên nhiên bốn mùa vần xoay và trong những lúc thích thú, vui vẻ chan hoà cũng biết thưởng thức chút niềm vui trần thế :
Rượu đến gốc cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao
Cái vòng danh lợi phú quí, mà phần lớn loài người đang lao vào bon chen đấu tranh khốc liệt để đạt được thì đối với tác giả chỉ có ý nghĩa như một giấc chiêm bao: ngắn lắm và phù du lắm, không còn đủ sức quyến rũ những tâm hồn ở ngoài vòng danh lợi.
Nét độc đáo ở đây là cốt cách tự tại, điềm tĩnh, thanh thản của nhà thơ. Ngay cả câu 3-4 có dùng phép phản ngữ ngụ ý trào phúng “ta dại, người khôn”nhưng không quá mỉa mai, khe khắt, mà còn có ý vị “lạc thiên, an mệnh” của tư tưởng Lão Trang.

Tóm lại bài Cảnh Nhàn của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm sáng tác trong thời kỳ cáo quan về ở ẩn, ý thơ trong sáng, lời lẽ bình dị, tư tưởng thông suốt êm xuôi, ngoài việc bộc lộ tư tưởng tình cảm tác giả, bài thơ còn đánh dấu một cố gắng thoát ly ảnh hưởng khuôn sáo thi tứ Trung Hoa mà tiến đến một ngôn ngữ thi ca dân tộc .

Friday, March 29, 2013

Thơ thiền

Thơ thiền

Cư sĩ Minh Chiếu
Đề tài này quá rộng và khó cho nên ít tác giả đề cập đến. Đứng về phương diện trào lưu thì nó như một model thời thượng, nhà thơ hiện đại nào cũng có dăm ba bài mang sắc thái màu thiền, hoặc triết lý thiền, hoặc ít ra là sử dụng ngôn ngữ thiền. Nó bắt nguồn từ sự bế tắc về triết lý, các giòng triết lý đương đại khiến con người lạc lối, hoặc lao vào hiện thực mà đích đến còn mơ hồ như chủ thuyết hiện sinh, hoài nghi… hoặc chìm đắm trong hư vô chủ nghĩa trước sự băng hoại về ý nghĩa cuộc sống, hoặc đấu tranh cách mạng bằng bạo lực để đi tìm sự công bằng, thiết lập một trật tự xã hội mới , nhưng cuối cùng cả những nước đàn anh như Liên Sô, Trung quốc chỉ đưa đất nước đến đói nghèo, bất công và tội ác… cuối cùng con người tự vong thân đánh mất mình, như câu chuyện ngụ ngôn chàng tráng sĩ bao năm hành hiệp giang hồ, một hôm trở về mái chùa xưa, cửa tùng huyền diệu đôi cánh không mở nữa, chàng mở chiếc gương thần ra soi, chợt hét lên một tiếng hãi hùng, vì soi gương bỗng thấy mình trở thành ác quỉ !!!

Thiền như giòng suối mầu nhiệm đứng ngoài dòng sanh diệt, không bị tám cơn gió chướng vần xoay, không đắm chìm giữa giòng cuồng lưu của các trào lưu xã hội tranh sống đến suy tàn, thiền không nằm trong tranh chấp, không nuôi dưỡng lòng căm thù cho bất cứ chúng sanh nào; và không tiêu diệt một loại chúng sinh nào, thiền cũng sẵn lòng góp phần thay đổi xã hội, nhưng không phải bằng bạo lực cách mạng để nhìn kẻ thù đang dãy chết, mà bằng sự giác ngộ, tỉnh thức mầu nhiệm của mỗi cá nhân để mỗi cá nhân tự hoàn thiện mình, đồng thời lại hoàn thành đại nguyện giác tha, giúp người khác cùng hiểu biết tiến bộ và thực thi cách sống mới đó, cho đến khi hoàn thành giác hạnh viên mãn, thì cuộc cách mạng xã hội đó mới hoàn thành… thiền chỉ là một thể cách sống, một triết lý nằm trong tư tưởng đạo Phật, nhưng không xây dựng thành doctrine mà là triết lý hành động, hiểu biết đến đâu thì thể nghiệm ngay trong cuộc sống đến đó… Đó là lý do vì sao thiền chứa đựng được tất cả mọi chúng sanh, đưa tất cả về nguồn suối uyên nguyên tự lắng nghe, tự soi, tự chiếu, tự cảm nhận, hiện lạc thường trú … giữa giòng sống vô hạn dạt dào, chảy từ a tăng kỳ kiếp, nay do nhân duyên mà có mặt trên cõi đời này, cảm nhận được sự màu nhiệm linh ứng trong mỗi sát na, giúp mỗi con người sống không uổng phí, phát đại nguyện nuôi dưỡng tâm bồ đề, sửa chữa sám hối bao tội nghiệp oan khiên trong quá khứ hiện tại và vị lai.

Friday, March 8, 2013

Đôi Bàn Tay Em


Happy Women's Day! 

Chuc cac chi em luon xinh dep, hanh phuc va luon biet rang suc manh cua nguoi phu nu khong phai o sac dep ma la o doi ban tay biet quan tam va cham soc cua ho!


---


Đôi Bàn Tay Em


PHẠM-TRƯỜNG-LINH
thương tặng Hồng Anh 


Trời cho em đôi bàn tay dịu mát
Em đã cho anh tự buổi em về
Đôi bàn tay khéo léo hay vụng về
Anh chẳng biết nhưng vẫn là kỳ diệu 
Tay khó nhọc nỗi đời ai thương hiểu
Đêm khuya rồi,còn vá áo cho con
Nhóm lửa nấu cơm,rửa chén,tay thoa son
Tay làm đẹp cho hồn anh tươi mát 
Tay khép cửa cho đêm về ấm áp
Tay châm ngọn đèn anh đọc giữa khuya
Tay xếp chiếu mền buổi sáng anh ra đi
Tay lận đận trăm chiều vất vả 
Em có về xin dịu hiền như mẹ
Xin thơm tho như lúa mọc trên non
Xin thanh cao như nước ngủ trên nguồn
Xin chịu đựng như đá mòn sông biển