Đọc “Pháp Hoa Huyền Nghĩa”
nhớ cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Tham luận Hội
thảo khoa học “Cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền với
Hội Phật học Nam Việt” - 20/4/2019 – Chùa Xá Lợi)
Nhân duyên được một người bạn tặng cuốn “Pháp
Hoa Huyền Nghĩa” của cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền, tôi đã đọc một mạch từ đầu đến
cuối và bị thu hút bởi cách diễn giải Pháp Hoa rất hay và độc đáo của cụ. Bằng
lối văn đơn giản, cách trình bày khoa học logic, có sự trích dẫn đối chiếu giữa
các phiên bản tiếng Hán, tiếng Việt và tiếng Pháp, cụ Chánh Trí đã trình bày những
“huyền nghĩa” của kinh Pháp Hoa một cách rất dễ hiểu, khiến người đọc dễ dàng nắm
bắt được mạch kinh và hiểu được ý nghĩa cốt tủy của bộ Kinh Pháp Hoa.
Kinh Pháp Hoa được xem là vua các bộ kinh, một
đại tác phẩm trong kho tàng kinh điển Phật giáo, và cũng được xem là khó hiểu
và khó tin đối với người sơ cơ, đặc biệt là hàng Phật tử ở thời mạt pháp như
chúng ta. Trong Kinh có một câu đặc biệt: "Các Đức phật chỉ vì một việc trọng
đại duy nhất mà ra đời, đó là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật”.
Được nghe đọc tụng kinh này cũng là đại nhân duyên của mỗi chúng ta, hơn nữa lại
được đọc những lời diễn giải huyền nghĩa vừa thâm sâu uyên bác, lại vừa phổ
thông đại chúng qua lời giảng của cụ Chánh Trí, bậc Phật học uyên thâm, thì thật
là diễm phúc cho hàng hậu học.
Từ nhân duyên trên, tôi đã có dịp
tìm đọc và hiểu thêm và cuộc đời và công hạnh của cụ Chánh Trí Mai Thọ Truyền qua
các bài viết và các tác phẩm khác. Cuộc đời cụ đúng là tấm gương sáng về hộ
pháp, hoằng pháp và phục vụ xã hội theo tinh thần của Phật giáo nhập thế. Cụ
Chánh Trí là người đã cống hiến rất nhiều trong việc chấn hưng và xây dựng Phật
giáo phương Nam và tận tụy phục vụ đạo pháp. Trong vai trò Hội trưởng Hội Phật
học Nam Việt, cụ đã tích cực trong việc tìm hiểu Phật học, phổ biến chánh pháp,
xây dựng cơ sở, kết nối giữa Phật giáo Việt Nam và thế giới. Ngoài ra, với trách
nhiệm Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, cụ đã làm nhiều việc có ích cho xã hội về
mặt văn hóa, như: xây dựng Thư viện Quốc gia, thành lập Văn khố quốc gia và Nhà
văn hóa, thành lập và đẩy mạnh hoạt động của Ủy ban Điển chế văn tự, lập Ủy ban
dịch thuật và xuất bản các sách Hán Nôm quý hiếm, thành lập Chi nhánh Bảo tồn Cổ
tích Huế (1).
Nói về công nghiệp hoằng pháp, cụ Chánh Trí
Mai Thọ Truyền đã để lại ba dấu ấn quan trọng cho hàng hậu học, là (a) thể hiện
trọn vẹn vai trò của người cư sĩ Phật tử đức độ trong quan trường, (b) thành lập
Hội Phật Học Nam Việt và đứng ra xây dựng ngôi chùa lịch sử Xá Lợi, làm trụ sở
cho hội, và (c) hoằng pháp cộng đồng qua các công trình nghiên cứu, dịch thuật,
biên tập tạp chí Từ Quang và xuất bản kinh sách... Tổng cộng cụ đã xuất bản 7
quyển sách Phật Học, trong đó có hai quyển được tái bản rất nhiều lần là Pháp
Hoa Huyền Nghĩa và Địa Tạng Mật Nghĩa (2).
Qua Pháp Hoa Huyền Nghĩa, người đọc sẽ hiểu
được lộ trình tu chứng từ phàm phu lên quả vị Phật, đó chính là quá trình chuyển
đổi tâm thức từ mê sang ngộ, từ việc nhận ra Phật tính trong mình, từ đó tu học
để xoay chuyển cái tâm phàm phu sang tâm bồ đề, và cuối cùng đạt đến quả vị Phật.
Nắm được nội dung ý nghĩa, bố cục chặt chẽ của 28 phẩm Kinh Pháp Hoa giúp người
đọc sơ cơ, bước đầu học Phật, có một bảng chỉ đường để thâm nhập kinh tạng.
Vì chúng sanh ham đắm sanh tử, không chịu tu
tập để thoát ra khỏi nẻo khổ luân hồi, nên đức Phật phải dùng phương tiện (đại
thừa, tiểu thừa) mà dụ dỗ họ đi tu, như người cha vì muốn con thoát khỏi nhà lửa
mà hứa sẽ cho nhiều xe đẹp. Nhưng khi các con đã an toàn ra khỏi nhà lửa, thì
không thấy xe hưu, xe nai đâu cả, mà chỉ có một cổ xe duy nhất, đó là Phật thừa
(phẩm Phương tiện, phẩm Thí dụ). Vì đường đi gian khó và lâu dài, nên sợ chúng
sanh nản lòng mà bỏ cuộc giữa chừng, đức Phật phải đặt ra các chặng dừng chân tạm
thời (phẩm Hóa thành), đó là các quả vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, chứ thật
ra chỉ có một đích đến sau cùng là thành Phật (giải thoát sinh tử). Nói là thành
Phật chứ thật ra chỉ là nhận lại tánh Phật vốn có của mỗi chúng sinh, mà xưa
nay vì mê mờ chúng sanh không nhận biết, như chàng cùng tử không biết có viên
ngọc trong chéo áo của mình (phẩm Tín giải).
Từ phẩm 1 (phẩm Tự) đến phẩm 9 (phẩm Thọ học Vô học ký), qua ba
lần thuyết pháp (Pháp thuyết, Dụ thuyết và Nhân duyên thuyết), thì cả ba hạng
căn cơ khác nhau (thượng căn, trung căn và hạ căn) đã được Đức Phật hiện tiền
thọ ký. Vậy còn các chúng sanh nơi khác, thời khác, không đủ nhân duyên gặp
Phật, nghe kinh thời ai thọ ký cho? Nên có Phẩm Pháp sư (thầy dạy pháp – phẩm
10) có nội dung chính là tán thán công đức Pháp Hoa mà người trì kinh, giảng
nói kinh đều được nhiều lợi ích và chúng sanh đời vị lai vẫn được thọ ký... Đạo
lý dùng pháp phương tiện để lộ ra chân lý thực "khai quyền hiển thật"
- thực là thâm diệu, lớn lao đã được Đức Phật giảng giải, được vận dụng trong
10 phẩm đầu của kinh. Trong đời mạt pháp, muốn có thể giảng nói kinh này, thời
phải “Vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai”, nghĩa là phải trang
bị tâm từ bi, mặc áo giáp nhẫn nhục, và thấu rõ chân lý “tất cả sự vật là
Không”. Phật tử trong tương lai cần noi gương cụ Chánh Trí trong việc tu học, trang
bị những tư lương cần thiết thì việc thuyết giảng kinh này sẽ dễ dàng, đương
nhiên sẽ có vô lượng công đức và được đức Phật thọ ký.
Phẩm thứ 11 là Phẩm Pháp Hoa hiện Bảo Tháp như lời phát nguyện của
Đức Phật Đa Bảo trong đời quá khứ, hễ ở đâu có nói kinh Pháp Hoa thì ngài sẽ
hiện đến (tháp Đa Bảo từ lòng đất vụt lên) trước là xác tín lời Phật giảng
không phải là điều hư dối, sau là duyên khởi cho việc "khai cận hiển
viễn" (khai mở cái gần để làm sáng tỏ cái lý lẽ sâu xa) sẽ nói đến hồi
sau. Nhưng có sự xác chứng nào bằng chính lời Phật Thích Ca kể lại: Ngài đã
từng cầu nghe kinh Pháp Hoa và từng được Đề Bà Đạt Đa nói cho nghe, nhờ thế
Ngài được thành Phật, nên có Phẩm Pháp Hoa Đề Bà Đạt Đa. Sau khi nghe lời tán
thán công đức và khuyến khích trì kinh của Đức Thích Ca và Đức Phật Đa Bảo, các
Bồ tát, Thanh văn liền vâng mệnh thọ trì... đưa đến nhân duyên cả nhũ mẫu Kiều
Đàm Di và Da Du Đà La cũng được thọ ký (Phẩm Pháp Hoa Trì). Nhưng giữa đời ngũ
trược ác thế mà thọ trì, giảng nghĩa kinh tránh sao được nguy nan, trở nạn, nên
có Phẩm Pháp Hoa An lạc hạnh, chỉ bày ra phương pháp hoằng dương kinh vẫn được
an lạc, khi nhân hạnh đầy đủ thì diệu quả ắt có. Hình ảnh hàng hàng lớp lớp Bồ
tát từ trong lòng đất vụt lên hộ pháp và cứu độ quần sanh trong Phẩm Pháp Hoa
Bồ Tát tùng địa dũng xuất đã chứng minh điều đó, cho thấy Đức Phật đã thành
Phật từ vô lượng kiếp, đã được nói đến đầy đủ trong Phẩm Pháp Hoa Như Lai thọ
lượng (tuổi thọ của Đức Như Lai). Phẩm cũng xác nhận nếu ai nghe được, trì
tụng, nói kinh thì công đức vô lượng, nên có Phẩm Pháp Hoa Phân biệt công đức.
Tuy chỉ tùy hỉ nghe và tùy hỉ người khác nghe (vui theo người) vẫn được phúc
đức vô lượng, nên có Phẩm Pháp Hoa Tùy hỉ công đức (công đức về sự vui nhận).
Nếu nghe, thọ trì, đọc tụng, viết chép, giảng giải, nói cho người khác cùng
nghe thành tựu 6 căn công đức như Phẩm Pháp Hoa Pháp sư công đức (các công đức
của vị pháp sư), đó là trung phẩm công đức. Nếu thực hiện được Pháp Hoa hạnh,
thanh tịnh sáu căn như Thường Bất Khinh Bồ tát trong Phẩm Pháp Hoa Thường Bất
Khinh thì thuộc về thượng phẩm công đức. Khắp mười phương chư Phật thấy chúng
sanh trong quá khứ, vị lai nghe Pháp Hoa kinh mà sanh tâm hoan hỷ, thọ trì thì
các ngài cũng hoan hỷ, hiện thần lực để tán dương hỗ trợ cho lòng tin và sự
thực hành thêm vững mạnh, nên có Phẩm Pháp Hoa Như Lai thần lực (thần lực của
Đức Như Lai).
Đoạn trên Đức Phật đã tán thán kinh và người trì kinh, đến đây,
Ngài phó chúc thọ trì, nên có Phẩm Pháp Hoa chúc lụy (dặn dò đệ tử). Ngài Dược
Vương Bồ tát nhờ lãnh thọ kinh giáo nên chịu khổ hạnh bằng cách thí xả thân mạng
để cúng dường, đã nêu ra một mẫu mực cho sự phụng sự chánh pháp và được kể rõ
trong phẩm thứ 23: Phẩm Dược Vương Bồ Tát bổn sự. Tuy ở phẩm này chưa nói rõ
phương cách truyền thông kinh pháp. Nhưng đến Phẩm Diệu Âm Bồ Tát mới nói rõ
việc phân thân trong sáu đường để hoằng kinh lợi vật. Còn hàng chúng sanh,
những người muốn tín thọ phụng hành thường gặp trở nạn nên cần phải có đức từ
bi cứu tế mới vượt qua khỏi, nên có Phẩm Pháp Hoa Quán Thế Âm Bồ tát, nhờ sức
thần chú gia hộ, nên có Phẩm Pháp Hoa Đà Ra Ni (mật chú). Người có công hoằng
kinh, lợi vật cũng là các bậc chơn thiện tri thức của chúng sanh, nên dù trong
nghịch cảnh nào cũng tùy duyên bất biến, chuyển được người bỏ tà theo chánh, từ
đó có Phẩm Pháp Hoa Diệu Trang Nghiêm Vương bổn sự (chuyện về vua Diệu Trang
Nghiêm). Tu hạnh Nhất thừa Pháp Hoa, truyền và trì kinh Pháp Hoa, tức tu hạnh
Phổ Hiền, nên có Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát (sự khuyến khích của Bồ tát
Phổ Hiền).
Đó là toàn bộ 28 phẩm kinh Pháp Hoa. Đọc nhiều lần mới thấy được
toàn thể sự mạch lạc của kinh. Trình bày, diễn giảng kinh Pháp Hoa là việc làm
cực khó, đòi hỏi người viết không những nắm vững nội dung, bố cục kinh Pháp
Hoa, thâm nhập tư tưởng và ý chỉ kinh Pháp Hoa: “Chỉ có một đạo lý nhất Phật
thừa”. Nhưng trước khi đạt đến Nhất thừa, Đức Phật đã phải tuần tự nói rõ từng
pháp môn phương tiện, để đến Pháp Hoa. Qua tác phẩm Pháp Hoa Huyền Nghĩa, không
những nội dung kinh Pháp Hoa được diễn bày một cách chặt chẽ, mạch lạc, mà các
nghĩa ý ẩn chứa bên trong (huyền nghĩa) cũng được tác giả phân tích thấu đáo,
cặn kẽ. Cụ Chánh Trí đã giúp các học giả sơ cơ hiểu được lộ trình tu tập căn
bản từ nhận ra Phật tính cho đến tu tập thứ lớp, tích lũy công đức, phát triển
bồ đề tâm, tu lục độ vạn hạnh…. Ngoài ra, đọc phần diễn giải huyền nghĩa, hành
giả cũng hiểu được ý nghĩa của tên gọi các vị Phật trong kinh (tượng trưng cho các
tâm hạnh), ý nghĩa biểu tượng của các sự kiện, nhân vật trong kinh, phương pháp
giảng dạy khế lý khế cơ của Phật.
Cái hay của Pháp Hoa Huyền Nghĩa là cụ Chánh Trí đã khéo léo đối
chiếu các bản dịch khác nhau, đặc biệt là tham khảo bản dịch tiếng Pháp của E.
Burnouf, nhằm làm sáng tỏ nghĩa kinh, phân tích những chỗ tương đồng và khác
biệt, từ đó đưa thêm những kiến giải làm cho nội dung kinh có ý nghĩa và sức
sống mới. Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của cụ Chánh Trí, ta thấy cụ đã chuyển
hiện Pháp Hoa vào đời sống tu học theo đúng lộ trình mà Phật đã dạy. Cụ chính
là tấm gương của một Pháp Hoa Pháp sư trên thực tế, thể hiện ở tấm lòng từ bi
qua việc phụng sự xã hội và đạo pháp (vào nhà Như Lai), kham nhẫn nhiều Phật sự
và thế sự đa đoan (mặc áo Như Lai), và an trụ trong tâm không, tự tại trong đối
nhân xử thế (ngồi tòa Như Lai).
Trước nay, khi nói đến đóng góp của người cư sĩ Phật tử cho đạo
pháp, mọi người thường nghĩ đến hình ảnh của cư sĩ Cấp Cô Độc trong việc ủng hộ
tịnh tài tịnh vật và hỗ trợ tu sĩ trong việc tu học, nhưng ở cụ Chánh Trí,
chúng ta lại thấy thấp thoáng bóng dáng của cư sĩ Duy Ma Cật (3), một người rất
thâm hiểu Phật pháp, tu học đến chỗ giác ngộ, và đóng góp vai trò tích cực
trong việc chấn hưng Phật giáo và hoằng pháp độ sanh. Phật giáo Việt Nam được
phát triển như ngày nay có công đóng góp rất lớn của cụ.
Hy vọng, trong giai đoạn sắp tới, để đối phó với nhiều vấn nạn của
thời đại, những cư sĩ Phật giáo trong tương lai cần noi gương cụ Chánh Trí, tự
giác giác tha, tu học để nhận ra Phật tánh nơi mình và tích cực hoằng truyền
chánh pháp. Nhờ đó, họ sẽ có thể trở thành các Bồ tát tùng địa dũng xuất nơi
cõi Ta bà ô trược này, và có thể đảm đương phận sự của các Pháp hoa pháp sư
trong tương lai như đức Phật đã phó chúc. Mong lắm thay!
Sài Gòn (4/2019)
Đức Kiên (Phạm Quốc Trung)
-----