Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Saturday, September 29, 2018

HỌC TẬP ĐIỆN TỬ & CHUYỂN GIAO TRI THỨC O VN

E-learning ở một vài trường ĐH trong TP.HCM -
thuc trang va giai phap

1.    E-Learning tại trường ĐHBK

E-learning là sự ứng dụng công nghệ thông tin và các nền tảng công nghệ cách tân trên Internet vào giáo dục (dạy và học) nhằm làm cho công việc giáo dục trở nên dễ dàng, rộng rãi, và hiệu quả hơn. Ưu điểm của e-learning là tiết kiệm chi phí, tiết kiệm thời gian, học mọi lúc mọi nơi, uyển chuyển – linh động, tối ưu, và hệ thống hoá. E-learning phù hợp với mọi đối tượng, mọi lứa tuổi và nó thực sự nổi trội hơn các phương pháp đào tạo khác. Lợi ích của e-learning đã được công nhận, nhưng ảnh hưởng của nó lên hiệu quả học tập và chuyển giao tri thức từ thầy sang trò vẫn còn chưa được kiểm chứng một cách rõ ràng.
Đại học Bách khoa (ĐHQG-TP.HCM) đã xây dựng hệ thống e-learning (Sakai) để hỗ trợ chương trình đào tạo từ xa từ 2011. Ngoài ra, một hệ thống e-learning khác dựa trên Moodle (một nền tảng mã nguồn mở) cũng đã được cài đặt và triển khai cho các hệ đào tạo khác. Mặc dù có nhiều ưu điểm, nhưng tỷ lệ sử dụng e-learning vẫn khá thấp, và hiệu quả thực sự của việc sử dụng e-learning lên học tập và chuyển giao tri thức vẫn chưa được đo lường.
Trên thực tế, số sinh viên đăng ký chương trình đào tạo từ xa giảm dần trong những năm gần đây. Liệu có thể tận dụng thế mạnh của e-learning để cải tiến chất lượng dạy và học và thu hút sinh viên cho chương trình đào tạo từ xa. Theo ban quản trị mạng của ĐHBK, khoảng 50% giảng viên vẫn chưa sử dụng hệ thống e-learning (2016). Điều này làm giảm mức độ tương tác trên hệ thống e-learning. Kết quả là hiệu quả dạy học của ĐHBK cũng bị ảnh hưởng và lợi ích thực sự của e-learning mang lại cũng giảm theo.
Thành quả học tập là kiến thức của học viên, những kỹ năng và thói quen học tập trong một khoá đào tạo và hiệu quả ứng dụng của họ lên công việc của họ. Học tập được xem là những kỹ năng của học viên và kiến thức có được qua trải nghiệm trong quá trình đào tạo. Chuyển giao tri thức là sự thay đổi thói quen của người học lên công việc thông qua kinh nghiệm trong quá trình đào tạo. Từ những nghiên cứu trước, nghiên cứu này muốn đo lường ảnh hưởng của các yếu tố như: Năng lực máy tính tự thân (Computer Self Efficacy), Tính dễ sử dụng (Ease of Use), Nhận thức tính hữu ích (Perceived Usefullnes), Tương tác mặt đối mặt (Face to Face Interaction), Tương tác qua email (Email Interaction) và Sự hiện diện tính xã hội (Social Presence) lên Hiệu quả học tập và Chuyển giao tri thức qua e-learning.
Kết quả nghiên cứu thể hiện 3 yếu tố Nhận thức tính hữu ích & dễ sử dụng, Tương tác mặt đối mặt, và Sự hiện diện tính xã hội có mối quan hệ tuyến tính với Thành quả học tập của sinh viên trong bối cảnh hệ thống e-learning của trường Đại học Bách Khoa Tp.HCM đang trong tình trạng hoạt động kém hiệu quả.
Dựa trên kết quả nghiên cứu này, một số hàm ý quản lý và khuyến nghị để nâng cao chất lượng học tập và chuyển giao tri thức qua e-learning ở ĐHBK được đề xuất như sau:
·      Làm cho hệ thống e-learning trở nên dễ sử dụng và hữu ích: Bộ phận quản trị mạng và e-learning cần cải tiến các chức năng của hệ thống hiện tại. Một số tính năng nên được tích hợp, như: hỗ trợ trực tuyến, hướng dẫn qua video, giải đáp các câu hỏi thường gặp… Ngoài ra, nên tổ chức các buổi tập huấn sử dụng hệ thống e-learning, đặc biệt là đối với SV. năm nhất và GV. mới. ĐHBK cũng nên dựa vào các phản hồi về chất lượng hệ thống để cải tiến và nâng cấp hệ thống nhằm đáp ứng kịp thời các nhu cầu sử dụng.
·      Gia tăng sự hiện diện xã hội trên hệ thống e-learning: BQL. nên áp dụng một vài phương pháp như: tổ chức các sự kiện mà đòi hỏi sự tương tác và chia sẻ trên e-learning, vd: bỏ phiếu, thi online…; gắn kết với forum và phân công admin phụ trách từng chủ đề; tích hợp với portal của ĐHBK & các trang mạng xã hội của trường… Ngoài ra, đưa thêm một vài tính năng tương tác của web 2.0 và hệ thống e-learning, như: blog, chia sẻ video, bình luận…, cũng giúp tang tính xã hội của hệ thống e-learning.
·      Gia tăng tương tác qua e-mail và kỹ năng máy tính của thầy và trò: BQL. cũng cần cung cấp cho SV. một địa chỉ e-mail lâu dài và khuyến khích dùng địa chỉ này để tương tác trên e-learning; tất cả các thông báo từ ĐHBK đến SV. cần gửi qua địa chỉ e-mail này. Tổ chức các khóa huấn luyện, các buổi seminar về nhiều chủ đề liên quan, như: kỹ năng sử dụng máy tính, khai thác hệ thống e-learning cho việc dạy và học, cách tìm kiếm thông tin khoa học, các công cụ/ công nghệ mới…   
·      Rèn luyện kỹ năng tự học cho SV.: Kỹ năng này rất quan trọng đối với SV. đã đi làm, thuộc các chương trình cao học, bằng 2, đào tạo từ xa. Đây cũng là một kỹ năng mềm khá cần thiết trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh chóng của cách mạng công nghiệp 4.0. Tổ chức thành một khóa học riêng, hoặc lồng ghép các nội dung này vào các môn học đang có đều hữu ích. Ngoài ra, các kỹ năng này cũng có thể được truyền thụ trong các hoạt động ngoại khóa, như: buổi giới thiệu ngành, các dự án khởi nghiệp, cuộc thi… Việc cung cấp kỹ năng này cho SV. đòi hỏi người thầy cũng phải thay đổi phương pháp giảng dạy và đánh giá, trong đó cần chú trọng: cập nhật nội dung, lấy người học làm trung tâm, sử dụng bài học tình huống, tạo không gian tranh luận mở, học đi đôi với hành…

2.    E-Learning ở một vài trường ĐH trong TP.HCM

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra nhiều cơ hội cho việc học tâp trực tuyến và cũng dẫn đến nhu cầu học tập, giải trí và làm việc mọi lúc mọi nơi. Gần đây, hệ thống e-learning là rất quan trọng đối với bất kỳ đại học nào để nâng cao chất lượng giáo dục và cung cấp cho sinh viên các nguồn học liệu hữu ích và chất lượng cao. Tuy nhiên, làm sao để khuyến khích việc sử dụng e-learning và cải thiện chất lượng học tập thông qua hệ thống e-learning vẫn còn là một thách thức đối với các trường Đại học. Mục đích chính của nghiên cứu này là nhằm tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng e-learning và thành quả học tập của sinh viên các Trường đại học tại TP.HCM.
Từ các nghiên cứu trước, một mô hình nghiên cứu đã được đề xuất, và kiểm định bằng các phương pháp như: phân tích Cronbach alpha, EFA, CFA, và mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) trên phần mềm SPSS và AMOS. Dựa trên phân tích định lượng từ 356 bảng trả lời hợp lệ, kết quả kiểm định mô hình cho thấy 5 nhân tố có tác động tích cực đến việc sử dụng e-learning gồm: hỗ trợ từ Đại học (0.367), kỹ năng máy tính của SV. (0.274), hạ tầng (0.195), nội dung và thiết kế khóa học (0.145), và sự cộng tác của SV. (0.118). Ngoài ra, hiệu quả học tập còn chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố là: việc sử dụng e-learning (0.446), và cộng tác của SV. (0.129).
Từ kết quả trên, một vài hàm ý quản lý được đề xuất để cải tiến hiệu quả sử dụng e-learning và gia tăng chất lượng học tập của SV. Đại học qua e-learning như sau:
·      Sự hỗ trợ từ nhà trường có vai trò quan trọng ảnh hưởng mạnh đến việc sử dụng hệ thống e-learning. Nhà trường, cụ thể làm phòng quản lý mạng hay phòng đào tạo chuyên trách phải làm tốt các công việc hỗ trợ sinh viên càng nhiều thì sẽ làm tăng việc sử dụng hệ thống, làm tăng hiệu quả của hệ thống. Điều này sẽ góp phần ảnh hưởng đến thành quả học tập thu được của sinh viên.
·      Kỹ năng máy tính của sinh viên, kinh nghiệm sử dụng máy tính trước kia, sự thành thạo các phần mềm máy tính có ảnh hưởng tích cực lên việc sử dụng hệ thống e-learning. Kỹ năng sử dụng vi tính có thể có được thông qua học tập và thực hành, do vậy nhà trường cần có các buổi hướng dẫn sử dụng các hệ thống thông tin trong nhà trường có liên quan đến sinh viên chi tiết hơn, cụ thể hơn, nhiều hơn,… nhằm đảm bảo tất cả sinh viên đều được trang bị tốt các kỹ năng máy tính cần thiết.
·      Nội dung và thiết kế của các khóa học có ảnh hưởng khá mạnh đến việc sử dụng hệ thống e-learning. Do vậy, việc chuẩn bị các nội dung, thiết kế chương trình học cần được chú trọng đầu tư nhiểu hơn và cung cấp các nội dung học tập đến sinh viên một cách nhanh chóng, đầy đủ, chính xác sẽ góp phần làm tăng chất lượng học tập, tăng hiệu quả của hệ thống và thành quả học tập của sinh viên.
·      Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin có ảnh hưởng đến việc sử dụng hệ thống e-learning là điều dễ nhận thấy. Một hạ tầng công nghệ thông tin mạnh, phần cứng máy chủ mạnh, phần mềm an toàn, tin cậy hoạt động ổn định sẽ giúp người dùng sử dụng hệ thống được thuận lợi, nhanh chóng, an tâm khi sử dụng. Do vậy, việc đầu tư nâng cấp các hệ thống máy chủ, phần mềm cần có kế hoạch và lộ trình cụ thể nhằm đảm bảo hệ thống công nghệ thông tin của nhà trường luôn luôn phù hợp với xu hướng phát triển nhanh chóng của ngành công nghệ thông tin.
- Nhu cầu tương tác, làm việc cộng tác của các sinh viên với nhau là một nhu cầu thể hiện tính xã hội trong một hệ thống công nghệ thông tin. Ngày nay, nhu cầu này được chứng minh rất rõ với sự bùng nổ của các mạng xã hội với số lượng thành viên cực lớn. Các công cụ tích hợp và hệ thống e-learning hỗ trợ cho sự tương tác, làm việc cộng tác của các sinh viên sẽ giúp giải quyết được nhu cầu cấp thiết này. Trên thị trường có nhiều ứng dụng như Teams của Microsoft hay Hangout của Google hỗ trợ rất mạnh cho điều này với chi phí rất rẽ thậm chí miễn phí nếu sử dụng cho trường học. Việc tăng cường hơn nữa các tính năng hỗ trợ sự tương tác, cộng tác của sinh viên như diễn đàn, hộp chat… trên các hệ thống e-learning hiện nay cần được quan tâm nhiều hơn vì điều này sẽ giúp làm tăng việc sử dụng và hiệu quả hệ thống đồng thời cũng góp phần làm tăng thành quả học tập của sinh viên.

Wednesday, September 5, 2018

Chim con về với Phật


Chim con về với Phật


Chú tiểu Minh nhặt được chú chim con lúc chiều khi đang cúng thí thực. Con chim run rẩy sà xuống như chiếc lá khô rơi rụng trong buổi chiều tà. Nó cùng bầy với lũ chim được phóng sanh hồi sáng này. Nhưng lại quá kiệt sức nên không thể bay xa được. Động lòng, chú mang chim về liêu mình để chăm sóc và cho ăn.
Buổi tối lên ngồi học kinh trên giảng đường, chú tiểu mang chim để trên bàn, nơi có ngọn đèn ne-on toả sáng. Hơi ấm của ánh đèn làm cho bộ lông chim khô ráo, và ánh mắt của nó trở nên linh hoạt hơn đôi chút.
Chú tiểu nhìn vào quyển kinh ngâm nga đọc, nhưng mắt cứ cụp xuống, gật gù. Bỗng chú giật mình khi nghe có tiếng chim hót. Mà không, hình như chim đang nói. Một giọng nói thật nhỏ nhẹ mà rõ ràng:
- Chú tiểu ơi! Tôi là loài chim sẻ ra đời chưa bao lâu mà đã bị bắt lui bắt tới đã bao lần rồi. Sáng nay khi được thả, tôi yếu quá nên không thể bay ra khỏi cổng chùa. Nhưng ở đây tôi có thể an tâm vì không sợ bị bắt lại nữa.
Thấy chú tiểu có vẻ ngạc nhiên, chim lại nói tiếp:
- Chú tiểu ở chùa nên không hiểu hết mọi chuyện ở bên ngoài cuộc đời đâu. Tôi và các anh chị mình cùng được sanh ra bên bìa rừng, cạnh một làng quê yên ả. Khi chúng tôi vừa chập chững biết bay liền rơi ngay vào một mẻ lưới của mấy tay chuyên bẫy chim đem bán. Tôi may mắn trôi dạt về tận chợ chim trên thành phố. Sau nhiều ngày bị nhốt chật chội, một hôm có người đến mua chúng tôi đem về chùa nhờ mấy thầy tụng kinh chú nguyện. Sau đó thì được sổ lồng cho bay đi. Khi được tự do tung cánh trên bầu trời, tôi định bay về nơi cánh rừng xưa, để mong sống lại với những cảm giác thân thương của thuở mới lọt lòng. Nhưng trời đất bao la, giữa chốn thị thành muôn lối, tôi không còn tìm thấy đâu lối về quê cũ xa tít mù sương khói, nên đành ở lại làm một kẻ tha hương. Vậy mà…hỡi ơi! Dòng đời là một trò cạm bẫy khôn lường. Một sinh vật nhỏ bé lạc bước như tôi lại dễ dàng sa chân vào những chiếc lưới giăng ra cách sân chùa không bao xa. Tôi bị săn bắt đem bán, rồi được mang đến sân chùa nhiều lần làm vật phóng sanh cầu thọ cho người. Nhờ được nghe quý thầy tụng kinh thuyết giảng mà dần dần tôi thoáng hiểu ra rằng: Đạo Phật là đạo từ bi cứu khổ. Phật vì muốn trừ tai ách cho chúng sanh nên dạy họ tu phước. Người có tín tâm thì hết lòng làm lành, cứu giúp sinh linh. Và cũng có những người chuyên lợi dung niềm tin của kẻ khác để mưu cầu lợi lộc cho mình. Vậy thì tôi xin hỏi chú tiểu câu này: Như tôi đây bỗng trở thành chiếc cầu nối cho người tu phước và tạo tội, vậy rốt cuộc tôi là kẻ có tội hay có phước?
Bị hỏi bất ngờ, tiểu Minh hơi lúng túng, giây lâu chú mới trả lời:
- À… điều này theo như tôi được biết thì… à... vào thời Phật chưa có tục phóng sanh, nên Phật chỉ nói đến việc giữ giới chớ nên giết hại sanh mạng dù là những loài vật nhỏ nhít. Làm việc phước lành không gì hơn là cứu độ muôn sinh. Và thế là lệ phóng sinh bỗng trở nên một nhu cầu cấp thiết cho người tu cầu phước thọ sau này. Làm phước thì được phước, tạo tội thì chịu tội. Chuyện nhân quả trong kinh Phật đều có nói rõ. Còn như chim nói mình có phước hay tội. Theo tôi nghĩ: khi thọ thân súc sanh là đã mang lấy tội nghiệp từ nhiều đời rồi. Nhưng nay chim được đến chùa, được nghe tụng kinh, lại hiểu rõ tội phước, đó cũng là gieo chút duyên lành giải thoát cho ngày sau. Tôi chỉ có hiểu chừng đó thôi… còn gì nữa thì để tôi đi hỏi sư phụ rồi sẽ trả lời cho chim sau nhé!
Chim thở dài, thều thào:
- Tôi đâu còn sống để đợi chú đi hỏi sư phụ. Có điều tôi cũng tự nhận biết rằng: Dù đời sống ngắn ngủi. Thân này lại mang nhiều tội nghiệp. Nhưng loài súc sanh như tôi vẫn có quyền và những giá trị riêng của nó. Ít nhiều chúng tôi đã khơi dậy chút từ tâm nơi lòng người và giúp họ có được một niềm tin sâu sắc vào những điều làm phước tu thiện. Còn với ai vì cuộc sống nên phải lợi dụng niềm tin của người cùng sự vụng dại của những con vật nhỏ bé này, thì tôi cũng có góp phần giúp họ trong việc tồn tại mưu sinh. Một bên vì đời sống tâm linh. Một bên vì nhu cầu hiện tại. Ai cũng tìm thấy mục đích thiết thực của mình. Như vậy tôi cũng làm được điều lợi ích cho đời, cho người. Tội phước dẫu vô hình. Nhưng tôi vẫn tin là phước này sẽ diệt được tội chướng kia. Thế nên hôm nay tôi mới được trở về nơi đây, được chết trong niềm tin chánh đạo.
Chú tiểu chợt tỉnh dậy khi nghe có tiếng động vang lên từ bên ngoài. Trời đêm tĩnh lặng. Ngọn đèn điện vẫn toả sáng một góc phòng. Và trên bàn học, chú chim sẻ đã chết tự bao giờ. Trong giấc chiêm bao chập chờn, câu chuyện về tội phước chưa cạn lời, nhưng chim ắt sẽ hài lòng ra đi trong sự nhẹ nhàng thanh thản. Chú chim con đã về với Phật. Tiểu Minh khẽ nói và thầm chú nguyện cho nó.
Những lời nói của chú chim con, dù chỉ thoáng qua trong giấc mộng, cũng giúp cho tiểu Minh hiểu sâu hơn về sự sống của muôn vật. Một sinh vật dù bé bỏng cũng mong muốn được sống chan hoà, cùng góp sức vươn lên một cách hoàn thiện. Khi lòng người luôn biết hướng đến những điều tốt đẹp vì hạnh phúc của muôn loài, thì thế giới này sẽ không còn cảnh nồi da nấu thịt, ỷ mạnh hiếp yếu, cậy lớn hiếp bé. Từ đó mà nhân sinh cùng vạn vật được chung sống trong niềm an lạc vô biên, đầy tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
Bài học: Câu chuyện trên về tâm sự của chú chim phóng sinh giúp chúng ta hiểu về nhân quả tội phước trong cuộc đời. Nếu chúng ta làm việc gì với tâm ý trong sạch thì sẽ có phước báu, còn nếu làm việc gì với tâm ý nhiễm ô, sẽ mang lại tội về sau. Người phóng sinh được phước vì muốn mang lại tự do cho chim, còn người bẫy chim để bán thì mang tội vì sinh sống bằng nghề nghiệp không chơn chánh. Tuy nhiên, việc mua chim phóng sinh vô tình đã tạo ra nhu cầu, và động cơ cho người bẫy chim để bán. Vì vậy, cũng gián tiếp gây tội. Chính vì vậy, ngày nay, nhiều chùa không khuyến khích phóng sinh, mà khuyến khích Phật tử nên nuôi dưỡng sự sống. Chúng ta cần biết tôn trọng sự cân bằng sinh thái và yêu quý thế giới tự nhiên.

(Trích: Những mẩu chuyện PG dành cho thiếu nhi - tập 3)

Saturday, August 18, 2018

Mùa Vu Lan

Mùa Vu Lan


Vu Lan lại trở về rồi
Trăng tròn vằng vặc sáng ngời trên không
Riêng con hãnh diện trong lòng
Niềm vui rộn rã hoa hồng cài lên
Chuông chùa trầm bổng êm êm
Gió đưa nhè nhẹ, bên thềm hương bay
Hoa hồng cài áo con đây
Món quà vô giá chứa đầy tình thương
Mẹ ơi, gió lạnh còn vương
Nép bên áo mẹ, gió sương ngại gì !

Vân Hà (TTHA)

Monday, August 13, 2018

CÂU CHUYỆN NGHIỆP BÁO

CÂU CHUYỆN NGHIỆP BÁO


Không hiểu sao, dạo nầy Lâm bỗng dưng lầm lầm lì lì không nói chuyện huyên thuyên như trước nữa. Nó đột nhiên hay cau có như muốn gây sự với bất cứ ai đến gần hỏi han nó. Nó cũng không buồn ăn hay tắm rửa, mỗi lần má nó nhắc nó đi tắm đi là nó gây sự rồi bỏ ra đầu ngỏ ngồi đến chặp tối mới trở vào nhà. Người ngợm dơ bẩn nhưng nó chẳng quan tâm chải chuốt như trước nữa. Nó dường như trở thành một người khác hẳn, dạo trước nó rất diện, tuy không đẹp hơn ai nhưng nó luôn chăm chút đầu tóc rất kỹ. Nó hay buột tóc đuôi gà rồi cài một cái bông thật to lên trên trông cũng hay hay. Trong xóm, mỗi lần gặp nó, bọn con trai hay hát ghẹo: Kìa, cô bé, có mái tóc đuôi gà…,để được nó nguýt cho một cái rồi cả bọn cười ré lên thích thú bàn tán lung tung về nó… vậy đó, mà bây giờ gặp nó ai cũng ngạc nhiên không hiểu sao nó hoàn toàn thay đổi đến như vậy. Có người bảo con bé bị điên rồi, chắc là trong giòng họ nhà nó có gien của người điên nên bây giờ mới phát… Năm nay, nó cũng đã mười bảy tuổi rồi, cái tuổi được coi là đẹp nhất, vậy mà nó phát điên, nghĩ thật tội nghiệp cho nó.

Má tôi với má nó cũng có chút bà con xa, nên má tôi cũng thương yêu nó không khác gì chúng tôi. Má tôi gặp ai cũng kể về tình trạng bệnh tật của nó để may ra gặp đúng thầy, đúng thuốc chữa cho con bé khỏi căn bệnh quái ác kia. Dạo trước, nó ở dưới nhà quê, từ nhỏ tới lớn chỉ biết đi học ở trường làng mà trường thì cách nhà hai quãng đường khá xa, ngang một nghĩa địa và phải qua một giòng sông không có cầu bắt qua, chỉ có một con đò nhỏ của ông lão chèo đò hàng ngày kiếm sống bằng cách đưa dùm mọi người qua sông…từ ngày nó phát điên, không chịu đi học nữa, má nó tìm cách đưa nó lên thành phố để chữa bệnh, và thế là hai mẹ con tá túc ở nhà tôi.
Lúc đầu, bác sĩ cho điều trị ngoại trú, cứ mỗi đầu tuần là hai mẹ con vào bệnh viện tâm thần Chợ Qúan để chạy điện, lấy thuốc điều trị rồi trở về nhà tôi tạm trú.Hơn nữa năm trời, bệnh cũng không thuyên gỉam chút nào mà càng lúc càng tăng. Lâm trở nên hung dữ, hay phá phách lúc về đêm nhiều hơn. Các em tôi rất sợ, chiều đến là chúng rút hết lên lầu không dám ở cạnh chị Lâm nữa. Chỉ còn tôi thỉnh thoảng trông chừng không để chuyện đáng tiếc xãy ra. Tôi dấu hết mọi thứ đồ vật có thể gây nguy hiểm như dao, kéo, kềm, búa….v.v…vì lúc lên cơn Lâm bất kể cả người thân….má Lâm không chịu đựng nổi nên bỏ về quê và thay vào đó là người cha quê mùa, mộc mạc lúc nào cũng đi chân đất lên ở lâu dài để chăm con.
Một năm sau, má tôi khuyên chú nên đưa Lâm vào nhập viện để tập thể bác sĩ, y tá ở trong bệnh viện chăm sóc cho Lâm sẽ hiệu quả hơn. Thế là Lâm vào ở hẳn trong bệnh viện tâm thần Chợ Qúan. Mỗi ngày có Ba vào thăm, nuôi. Thỉnh thoảng, má Lâm mới lên thay cho Ba về quê coi sóc ruộng vườn ít bửa, rồi lại trở lên Sài Gòn nuôi con gái. Chiều thứ bảy, má tôi cũng thường bảo chú ấy đưa Lâm về nhà chơi cho khuây khoã và cũng để theo dõi xem bệnh tình của Lâm tiến triễn có tốt không? Thế nhưng, mọi cố gắng của người cha gần như vô vọng. Chẳng những Lâm không thuyên giảm mà còn có vẽ như nặng hơn…mỗi lần về nhà, Lâm chẳng nói chẳng rằng, cứ ngồi im thin thít ở trong một xó tối. Cặp mắt lạc thần cứ nhìn trừng trừng vào khoảng không trước mặt như đang phải đối diện với một ai đó. Thỉnh thoảng buông một tràng cười man dại… má tôi dỗ dành cách nào cũng không chịu nói chuyện hay ăn uống chi cả. Riết rồi má tôi và ba Lâm cũng quyết định để mặc cho cô gái với số phận không may đó. Ba Lâm chuyển cho con gái lên Biên Hòa và ở luôn trong bệnh viện cho tiện việc điều trị, rồi ông về Cần Thơ và không lên nữa. Má tôi, thỉnh thoảng có nhớ đến cô cháu tội nghiệp lại nấu nướng các món ăn ngon rồi sai tôi đi thăm nuôi…mỗi lần như thế, tôi sợ muốn chết nhưng không dám cải cũng vì tội nghiệp và thương cho số phận không may của Lâm.
Sáng nay, má tôi sắp sẳn đồ ăn, thức uống cho Lâm, bảo tôi đi sớm rồi về sớm cho kịp chuyến xe buýt buổi chiều. Tôi đến nơi hãy còn sớm lắm, mọi người trong bệnh viện còn đang tập thể dục ngoài sân. Không khó chút nào, tôi tìm thấy Lâm đang đứng thơ thẩn ở một góc sân cỏ. Lâm vẫn còn nhận ra tôi, cô gái cười nói tíu tít:
– Trời ơi ! chị Sáu, em mừng quá, em cứ tưởng hôm nay chị không lên, ba má em có lên thăm em không ?
Tôi an ủi :
–Đừng buồn, Lâm, chắc chú thím bận công việc ở quê nên không lên được, má chị bảo cứ để ở trên nầy gia đình chị chăm sóc cho em cũng được. Bao giờ ở dưới rảnh rỗi sẽ thu xếp để lên thăm em mà…
–Em biết rồi…chắc là ba má thấy em điên khùng nên không thương nữa, bỏ rơi luôn…
Nói xong, cô gái ôm lấy tay tôi, khóc òa như đứa trẻ con. Tôi cũng cuống quít, dỗ dành:
– Thôi nào, đừng khóc nữa, giống con nít quá, người ta cười Lâm kìa…
Lâm ngồi bệch xuống gốc cây cạnh đấy, nước mắt vẫn chan hòa nhưng không khóc lớn tiếng nữa. Tôi dở gào mên thức ăn ra, bảo Lâm :
– Thôi, đói chưa ? ăn chút gì đi nhé, hôm nay má chị làm thức ăn ngon lắm đó…
– Em không muốn ăn đâu, em chỉ muốn về nhà thôi, chị nhắn dùm ba má lên rước em về đi…
– Ờ, để từ từ rồi chị nhắn cho, nhưng em phải ngoan, uống thuốc đều đặn, nghe lời bác sĩ một thời gian, khi nào bác sĩ cho phép ba má mới lên đây rước em về được….
–Em hết điên rồi mà chị… không tin, chị vào hỏi bác sĩ thử xem…
– Chị tin chứ, nhưng phải ở lại dưỡng bệnh một thời gian nữa mới chắc ăn, bác sĩ nói vậy mà…
– Chị chưa gặp bác sĩ, sao chị biết ?
Tôi cười trừ :
– Ờ…chị có người bạn cũng bệnh giống em vậy đó, nhưng giờ chị ấy hết bệnh rồi, đã được ba má đón về rồi. Em ráng ở trong nầy thêm một thời gian nữa thôi rồi chú, thím sẽ lên đón em về dưới mà….
– Em mong từng ngày để được về lại dưới quê, ở trên đây em thấy khó chịu quá…tại sao ba má không để em ở dưới cũng được, không phải tốn tiền đi xe đò, không phải tốn tiền nằm bệnh viện? Chị nhắn ba má lên rước em về đi, em hết chịu nổi rồi…
Nói xong, Lâm lại khóc nức nở, không chịu ăn. Tôi thương Lâm vô cùng nhưng không làm sao giúp được cô gái. Tôi chỉ biết dỗ dành Lâm như một đứa trẻ con :
– Thôi nào, nín đi, đừng khóc nữa, không chị về liền cho xem, chị lên thăm thì phải vui lên chứ, khóc hoài chị không dám lên nữa à…
Bấy giờ Lâm mới cuống qúit ;
– Đừng…chị đừng về…đừng bỏ em một mình trong đây nữa…em sợ lắm, mấy người đó dữ lắm…họ muốn giết em chết đó…họ cứ trói tay chân em lại hoài, rồi họ còn cho điện giựt em nữa, chị ơi…nói ba má rước em về lẹ lẹ lên nha, em sợ ở trong nầy lắm rồi…
Tôi trấn an :
– Ờ …để chị nhắn chú thím lên gấp đón em, bây giờ thì ăn đi để chị còn về cho kịp chuyến xe buýt…
Nhìn cô gái ngoan ngoãn ăn cơm, tôi thấy xót xa trong lòng làm sao. Lâm bây giờ không giống như Lâm trước kia tôi biết. Trước kia, Lâm xinh đẹp, yêu đời, lanh lợi bao nhiêu thì bây giờ tàn tạ như đóa hoa buổi chiều, Lâm héo hắt, ngơ ngác, đôi mắt lạc thần nhìn vào khoảng hư vô như đang đối diện với một ai đó vô hình…người ngợm dơ bẩn vì không chịu tắm. Riết rồi, cáu bẩn bám đầy không còn ra dáng một cô gái nũa, lúc nào đầu tóc cũng bù xù, rối bời như mớ bòng bong…chỉ có khi nói chuyện với tôi là có vẻ tỉnh táo đôi chút, có lẽ do nhớ nhà, nhớ cuộc sống tự do, nhớ những kỹ niệm với bạn bè dưới quê cùng bắt cua, bắt ốc bên nhau lúc nhỏ nên Lâm không thể chịu được cuộc sống bẩn chật nơi cái bệnh viện tâm thần nầy. Chung quanh chẳng có một ai thân quen, chỉ toàn là những người cùng bệnh như nhau. Nhìn họ, tôi thấy là Lâm hãy còn bình thường lắm vì còn nhìn ra người quen, người thân, còn biết nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ những người bạn ở cùng quê… còn họ, những người bạn trong bệnh viện tâm thần nầy của Lâm, chẳng còn ra con người nữa. Họ đi thơ thẩn khắp nơi, người thì ca hát cuồng loạn, người thì khóc la thảm thiết, người thì xé quần, xé áo, trần truồng đi lang thang như người mộng du, có người còn đánh đấm, cắn nhau đến nổi bác sĩ phải nhốt họ riêng một phòng. Họ không còn nhìn ra người thân của họ nữa. Những con người khác lạ hoàn tòan, dường như là không còn dính dáng gì với thế giới loài người nữa. Họ sinh hoạt trong cái thế giới hoang tưởng của họ, một thế giới rất riêng của những người bị bệnh tâm thần với nhau. Họ không hề sợ bất cứ điều gì, bất cứ ai. Bác sĩ, y tá, bác bảo vệ…và cả những người thân của họ. Bỏ họ ở lại bệnh viện luôn hay đón họ về với gia đình cũng thế thôi. Họ không còn phân biệt nổi đang ở nhà hay đang ở bệnh viện tâm thần nữa. Họ chẳng buồn ăn uống, người gầy rộc chỉ còn da bọc xương , nước da xanh rớt như người chết, nói năng lảm nhảm, đôi mắt ngơ ngáo, nhìn vào cõi riêng của họ, thậm chí, có người thân ở kế bên, họ cũng không còn nhận biết nữa. Còn Lâm thì không thế, Lâm hãy còn nhận biết mình đang bị mọi người thân bỏ rơi dần dần, còn thấy nhớ nhà, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ người thân ở dưới quê lâu rồi không gặp mặt. Những lúc tỉnh táo bất chợt như thế Lâm chỉ biết khóc mà thôi. Lâm rất sợ bị bác sĩ và các cô y tá la rầy. Có lẽ trong số bệnh nhân tâm thần ở đây chỉ có Lâm là ngoan nhất. Lâm vừa ăn vừa năn nỉ tôi:
– Chị Sáu nhớ nhắn ba má dùm em nha, em hết bệnh rồi, không tin chút nữa chị hỏi bác sĩ coi…
–Ờ…để rồi chị nhắn dùm cho, ráng ở đây uống thuốc thêm ít hôm cho khoẽ hẵn đã, không thôi về dưới bệnh lại, mất công trở lên bác sĩ không nhận đâu…
Tôi cứ hứa bừa như thế cho cô gái yên tâm mà trong lòng tôi thừa biết cả nhà Lâm gần như tuyệt vọng hoàn toàn. Đã hơn nữa năm trôi qua, ba má Lâm gần như bỏ hẳn không lên thăm con nữa, một phần là vì ở dưới quê lên tận Biên Hòa để thăm con thật không đơn giản, nào tiền xe, tiền ăn , tiền thuốc thang…rồi còn không có chổ ở lâu dài nữa, phải ở lang thang trong bệnh viện mất mấy ngày mới trở về nhà tôi tận Sài Gòn, rồi lại phải mua vé xe trở về Cần Thơ, tận chốn miệt vườn sông nước mênh mông, bốn bề vắng vẻ, không một bóng người láng giềng ở cạnh, có chăng chỉ là những mái nhà thấp thoáng xa thật là xa, muốn gặp nhau nói câu chuyện phải đi đò qua một con sông khá rộng và sâu. Vậy đó, mà gia đình Lâm ở đấy đã lâu lắm rồi, nghe nói từ đời ông nội của Lâm. Ngày trước, ông bà của Lâm cũng thuộc hàng khá giả, có của ăn của để, có ruộng vườn cho người làm công, có tiền của cho vay lãi và đối đãi với người ăn kẻ ở rất là khe khắt…nếu có ai vi phạm điều gì là trừng trị thẳng tay, không hề biết thương hại một ai, ngay cả đối với bà con, họ hàng gần cũng như xa, ông đều không nương tay …riết rồi mọi người đều xa lánh không ai muốn ở gần ông nũa. Từ khi lớn lên, Lâm chỉ nghe kể về ông, chứ không nhìn thấy vì lúc ấy ông mất đã lâu lắm rồi. Tôi cũng đã có lần nghe má của Lâm kể về ông, về những lần ông trừng phạt những người làm công có lỗi, trong đó có một người vì uất hận quá nên sinh bệnh mà chết. Trước khi chết ông ta tìm đến ông nội của Lâm nói những lời nguyền rủa rất độc địa, có lẽ vì thế mà bây giờ con cháu của ông gặp phải những điều không may chăng? Má của Lâm chỉ biết than vắn, thở dài mỗi khi nhìn thấy con gái trở nên điên loạn như thế. Bà là chị dâu họ của má tôi. Khi bà về làm dâu nhà ấy, bà mới biết chuyện trong gia đình nhà chồng có những uẩn khúc mà người ngoài không bao giờ biết được. Bà thường nói với má tôi :
– Có lẽ ông bà nội nó thiếu âm đức cho nên con cháu không được may mắn như con người ta, chứ nó có tội tình gì đâu.Con gái mới lớn mà như thế là hết đời, em không biết làm cách nào để chữa trị cho cháu bây giờ…
– Thím đừng nghĩ ngợi nhiều quá.Nghiệp báo của ai người đó phải gánh chịu chứ ông bà thì có lỗi gì? Trừ khi cộng nghiệp của cháu và ông bà giống nhau, nên mới có chuyện trùng hợp như thế thôi…
Má tôi an ủi :
– Thím nên mang cháu vào chùa thử xem. Tôi nghe nói ở bên Linh Quang tịnh xá có sư thầy chữa bệnh nghiệp chướng hoặc ma quỉ ám rất hay, nếu như cháu có người cõi âm theo hay nghiệp chướng nặng nề thì thầy cũng đều chữa được hết. Chẵng những thế, mà thầy còn độ cho biết bao bệnh nhân sau khi hết bệnh, có được cuộc sống bình thường, biết làm việc tốt để tạo phước báo sau nầy…
Má Lâm gật đầu như cái máy:
– Để hôm nào thuận tiện khi ba cháu lên thăm, em sẽ dẫn cháu lên chùa một lần cho biết. Nếu như cháu còn chút phước báu thì may ra… chứ em tuyệt vọng lắm rồi chị ơi… Thím vừa nói vừa khóc trông rất tội nghiệp. Má tôi nhận lời trông nom cho Lâm ở Sài Gòn để ba má Lâm trở về quê lo công việc dưới ấy, thỉnh thoảng, độ vài ba tháng mới lên thăm một lần…và thế là má giao cho tôi đảm trách việc thăm nuôi thường xuyên cô em gái không bình thường nầy. Mỗi tuần một lần, tôi đều đặn lên Biên Hòa thật sớm để thăm và mua quà vào cho Lâm…Lần nào cũng vậy, hễ gặp tôi là Lâm đều khóc lóc, năn nỉ bảo tôi xin bác sĩ cho về vì Lâm chẳng có bệnh gì cả. Có lần, má tôi tội nghiệp bèn xin với bác sĩ cho về nhà chơi ít bữa, đêm đó, cả nhà phải một phen khiếp vía vì sự lên cơn của Lâm. Nữa đêm, Lâm không chịu ngủ, la hét um sùm, cầm dao chém lung tung như đang chiến đấu với một kẻ vô hình….thế là sáng hôm sau má tôi lại nhắn ba má Lâm đưa cô gái trở lại bệnh viện tâm thần…
Trước khi vào viện, chú thím cũng nghe lời má tôi đưa Lâm lên chùa để điều trị thử xem, Lâm nhất quyết không chịu đi, cứ đến cửa chùa là không chịu vào, nhất quyết đòi về cho bằng được đến nổi sư thầy phải ra tận bên ngoài đón vào… có lẽ do thần lực của sự chú nguyện của thầy nên Lâm đột nhiên trở nên ngoan ngoản lạ thường. Cô gái bước vào chánh điện có vẻ rụt rè, sợ sệt…đôi mắt ngơ ngác nhìn lên Phật, chắp tay với vẻ khuất phục, cô quì xuống, khóc nức nở…giọng thầy trầm, đều đều:
–Con có điều gì oan ức chưa giải tỏa được, hãy cứ nói thầy nghe, có thể thầy sẽ giúp được cho con…
Đột nhiên, Lâm quay người lại, chỉ thẳng vào chú, giọng nói lạ hẳn đi :
– Cha của người nầy đã ức hiếp con, đã đánh con chết ở ngay tại gốc xoài phía sau nhà…con tức lắm, con không đi được, con phải ở lại để trả thù con cháu của ông ta….
–Thôi nào…tội người nào làm người ấy chịu, sao lại trả thù con cháu người ta, cho thầy xin đi, ở lại chùa với thầy, thầy sẽ độ cho…
– Không được, con không chịu…con phải trả thù…
Lâm gào lên, rồi khóc nức nở như uất ức…thầy không nói gì nữa, chỉ lầm thầm niệm chú, Lâm ngồi yên lặng một chút rồi thiếp đi…Thầy đứng lên nói với chú thím tôi :
– Chắc là người đó đã đi rồi, hoặc ở lại chùa với tôi, ông bà cứ đưa cháu về, không sao đâu…
Chú thím tôi cảm ơn thầy, nhìn nhau. Tôi thấy ánh mắt của họ có một cái gì đó hơi lạ, họ cũng không buồn hỏi thầy là ai đã nhập vào Lâm để có những lời nói lạ lùng đó nhưng tôi nghĩ – trong thâm tâm của chú thím, chắc là họ hiểu điều gì đã xãy ra đối với con gái mình – rồi chú thím không đưa con vào bệnh viện tâm thần nữa mà quyết định đưa Lâm về Cần Thơ, cho Lâm ở nhà tự điều trị bằng thuốc nam…
Kể từ dạo ấy tôi ít khi được gặp lại Lâm vì không có dịp về Cần Thơ thường hơn, chỉ những dịp hè tôi mới về được ít ngày nhưng lại không có thì giờ về tận nhà của Lâm ở tuốt trong vàm, xa xôi cách trở nhiêu khê…rồi tôi lập gia đình… không có dịp về quê thường hơn… cho đến bây giờ…Một hôm, đi dự đám cưới của người em chú bác, tôi có nghe được tin tức của Lâm… càng buồn hơn nữa… Lâm về quê được ít lâu thì bệnh tái phát, lần nầy nghe nói nặng hơn trước rất nhiều đến nỗi Lâm không còn nhận ra người thân. Lâm luôn gào thét, không chịu ăn uống, tắm rữa…Ba Má của Lâm cũng quá mệt vì con, phần tuổi cao, sức yếu nên không còn nghĩ đến việc đưa con lên Sài Gòn chữa trị nữa. Lâm cứ sống cuộc sống điên loạn như thế cho đến một hôm người ta nhìn thấy cô gái nằm gục bên bờ sông nhưng đã chết tự bao giờ… Tôi lặng người… không buồn cho Lâm mà còn cảm thấy mừng vì Lâm đã thoát khỏi kiếp sống đọa đày… Nghiệp báo của mỗi người không giống nhau vì sự tạo nghiệp của mỗi người khác nhau nhưng tôi nghĩ rằng trên cả sự vay trả, trả vay là lòng tha thứ, bao dung của con người. Nó có thể cắt đứt giòng nghiệp báo triền miên đã làm cho kiếp người vốn khổ đau lại càng đau khổ hơn nầy…
Mỗi lần nghĩ về Lâm tôi luôn cầu nguyện cho Lâm có được kiếp sống khác tốt đẹp hơn, an vui hơn, hạnh phúc hơn kiếp nầy… bởi vì Lâm đã trả nghiệp xong rồi…
Vân Hà (TTHA)

Monday, August 6, 2018

Viết cho quê hương yêu dấu

Viết cho quê hương yêu dấu


Cánh cò bay lả bay la
Quê hương tôi đó, tiếng gà sớm trưa
Dòng sông in bóng hàng dừa
À ơi tiếng võng, giấc trưa yên bình

Quê hương, đất nước đẹp xinh
Hãy cùng bảo hộ, quê mình trong xanh
Đừng gây ô nhiễm dòng xanh
Chớ khai thác cạn, của dành cháu con...

Đất kia chớ để hao mòn
Biển trời, gắng giữ, từng hòn đảo xa
Quê hương, tài sản ông cha
Cháu con gìn giữ, chớ mà phá tan!

Vì đâu, nên nỗi nhà tan?
Vì đâu khắp chốn, đôi hàng lệ xa?
Vì đâu, bỏ xứ đi xa...
Gây bao đau khổ, chẳng qua tham tiền!

Lắng lòng, nghĩ chút niềm riêng
Trăm năm thoáng chốc, muộn phiền mai sau,
Quê hương, dân tộc dài lâu
Bạc tiền, đảng phái… còn đâu… nấm mồ!

Vô minh, tưởng dựng cơ đồ
Ai hay, tay trắng, hồ đồ, thương đau… !
Lòng người phân tán, vì đâu?
Dân tình cơ cực, nổi sầu ai gây?

Lặng nhìn, đất đó, trời đây
Cầu cho biển lặng, mong ngày an vui
Cầu cho bóng tối mau lùi
Quê hương sáng lại, niềm vui thanh bình…

8/2018 - PQT


 


Saturday, July 14, 2018

Video clip cho con gái Nhất Tâm



Mẹ bảo bố thiên vị, toàn làm clip cho con trai mà chưa làm clip nào cho con gái hết. Nên bố tranh thủ ngày hè rãnh rỗi, làm clip này và post lên đây nè. Chất lượng chưa tốt lắm vì phần mềm miễn phí, thiếu nhiều chức năng, và hình trong điện thoại chưa tập hợp đủ. Thôi thì có sao để vậy nhé, con gái iu của bố! :)

Friday, June 29, 2018

KHEN CHÊ


KHEN CHÊ




Xưa, vị lai,và nay,
Ðâu có sự kiện này,
Người hoàn toàn bị chê,
Người trọn vẹn được khen.

Xưa vậy, nay cũng vậy,
Ngồi im, bị người chê,
Nói nhiều, bị người chê,
Nói vừa phải, bị chê.
Làm người không bị chê,
Thật khó tìm ở đời.
Khen chê không lay động
Luôn an tĩnh, ai ơi!

(Trích Thơ Phật cho Trẻ em - Đức Kiên)

Friday, June 15, 2018

THẾ NÀO LÀ MỘT CHÍNH SÁCH TỐT VỀ AN NINH MẠNG?


THẾ NÀO LÀ MỘT CHÍNH SÁCH TỐT VỀ AN NINH MẠNG?

TS. Phạm Quốc Trung, Khoa QLCN, ĐHBK Tp.HCM

Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của CNTT-VT và mạng lưới Internet, các tổ chức, quốc gia đều nhận thấy những lợi ích mà hệ thống thông tin (HTTT) mang lại, như là giúp con người: làm việc nhanh hơn, hiệu quả hơn và thông minh hơn. Vì vậy, các tổ chức và quốc gia đều đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT-VT và Internet trong việc xây dựng các HTTT của mình, như hệ thống TMĐT hay chính phủ điện tử, xem đó như là chiến lược nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của tổ chức hay quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh lợi ích mang lại, những vấn đề đảm bảo an toàn, an ninh HTTT và dữ liệu cũng ngày càng trở nên quan trọng, bởi thông tin và HTTT đã trở thành 1 loại tài sản quý giá của tổ chức cần phải được bảo vệ. Ngày nay, các vấn đề về an toàn, an ninh HTTT có thể gặp ở khắp nơi, như: virus, trojan, tấn công mạng, tấn công từ chối dịch vụ, đánh cắp dữ liệu, thiết bị, xâm nhập CSDL trái phép, tiến hành các giao dịch trái phép… Tuy nhiên, làm thế nào để bảo vệ an toàn, an ninh HTTT, hay để đưa ra một chính sách tốt về an ninh máy tính giúp hạn chế đến mức tối thiếu các thiệt hại vẫn là 1 câu hỏi khó đối với các nhà quản lý. Bài viết này, dựa trên kinh nghiệm cá nhân của một người đang giảng dạy và nghiên cứu về lĩnh vực HTTT ở VN để đưa ra một số phân tích, nhận xét, góp ý cho các nhà quản lý về ANM. Hy vọng bài viết sẽ giúp những người ngoài ngành hiểu thêm về vấn đề khá mới và còn nhiều tranh cãi này.

Trước hết, để đơn giản, trong bài viết này, các khái niệm An ninh máy tính, An ninh thông tin, hay An ninh mạng… được xem là tương đồng nhau, cùng chỉ đến phương thức để bảo vệ sự an toàn, an ninh của các hạ tầng CNTT-VT, dữ liệu, thông tin, HTTT quan trọng… của tổ chức, đảm bảo tổ chức vận hành hiệu quả, ổn định và an toàn. Để có được chính sách an ninh thông tin tốt, người quản lý HTTT cần nhận diện các mối đe dọa đối với an toàn, an ninh của HTTT. Theo các tài liệu học thuật về HTTT (Kroenke, 2014), có ba nguồn đe dọa an ninh thông tin chính bao gồm:

-          Sai lầm hoặc vi phạm (không cố ý) của con người, hoặc bất kỳ ai khi sử dụng hệ thống.

-          Hành vi cố ý phá hoại của con người, chủ yếu là các hacker, hay nhân viên chống đối.

-          Thảm họa từ thiên tai, như: động đất, lũ lụt, hỏa hoạn, sóng thần, sét đánh…

Trong đó, hành vi cố ý phá hoại của hacker được xem là nguy hiểm nhất. Theo các thống kê về tình hình tội phạm máy tính và Internet, với xu hướng phát triển của các công nghệ phòng chống virus và ngăn ngừa tấn công phá hoại, ngày nay, số lượng các cuộc tấn công nhỏ lẻ từ các cá nhân đã giảm xuống, nhưng mức độ nghiêm trọng và tổn hại từ các vụ tấn công mang tính tổ chức lại tăng lên. Hơn nữa, các số liệu thống kê cũng cho thấy các vấn đề an ninh nghiêm trọng gần đây liên quan đến việc đánh cắp dữ liệu, gián điệp mạng, tấn công phá hoại, hoặc chiến tranh mạng… chủ yếu đến từ các tội phạm mạng có tổ chức, hoặc được tài trợ bởi các chính phủ độc tài hay được vận hành bởi các tổ chức khủng bố quốc tế. Vì vậy, mối quan tâm về an ninh mạng hiện nay trên thế giới tập trung vào bảo vệ an toàn HTTT trước mối đe dọa từ tội phạm mạng có tổ chức là trên hết. Hơn nữa, việc tấn công mạng ngày nay còn có chiều hướng mở rộng ra các lĩnh vực khác, gây xâm phạm chủ quyền quốc gia, và có thể dẫn đến nguy cơ chiến tranh mạng. Chính vì vậy, tổng thống Obama khi đến TQ đã đề cập bóng gió đến vấn đề này.

Bảng dưới đây tóm tắt một số vấn đề về an toàn, an ninh HTTT mà các tổ chức thường gặp, như là: rò rỉ dữ liệu, chỉnh sửa sai dữ liệu, dịch vụ báo lỗi, từ chối dịch vụ, và mất mát thiết bị... Kết nối các vấn đề này với ba nguồn đe dọa đã được nhận diện trên đây sẽ giúp mọi người dễ hình dung hơn về các vấn đề mà một chính sách an toàn, an ninh HTTT nên chú ý.

Bảng 1. Các vấn đề an ninh HTTT và những nguồn đe dọa

Theo Viện Quốc gia về Chuẩn và Công nghệ (NIST) của Mỹ (https://www.nist.gov/), một chính sách an ninh thông tin tốt cần có các đặc tính sau:

1.      Cần hỗ trợ nhiệm vụ, mục tiêu của tổ chức

2.      Cần tích hợp chặt chẽ với các hoạt động quản trị khác

3.      Cần tiết kiệm chi phí

4.      Trách nhiệm và tính giải trình cần được chỉ rõ

5.      Cần xem xét tính liên đới với an toàn an ninh bên ngoài hệ thống

6.      Cần một cách tiếp cận tích hợp và toàn diện

7.      Cần được tái đánh giá theo định kỳ

8.      Cần tuân theo các ràng buộc và quy chuẩn xã hội

Từ những thông tin trên, hãy cùng nhìn lại luật An ninh mạng (ANM) mà Quốc hội Việt Nam vừa thông qua 12/6/2018, và sẽ có hiệu lực từ 1/1/2019 để xem đó có phải là 1 chính sách tốt về an ninh thông tin hay không. Đầu tiên, cần nhận thấy luật an ninh mạng vừa được thông qua chưa thể xem là tốt bởi nó chưa đáp ứng đầy đủ các đặc tính trên. Cụ thể là, luật ANM của Việt Nam đã không thỏa mãn các đặc tính: 3 (tiết kiệm), 4 (trách nhiệm và giải trình), 6 (tiếp cận toàn diện), và 8 (tuân theo các ràng buộc xã hội). Hãy cùng tìm hiểu vì sao nhé!

-          Về chi phí triển khai: Theo nhiều phân tích trong và ngoài nước, khi triển khai luật này, chi phí cho các DN hoạt động trong lĩnh vực CNTT-VT và các tổ chức kiểm tra, giám sát sẽ tăng lên rất lớn khi phải trang bị các hạ tầng phần cứng, phần mềm, CSVC liên quan và con người để có thể lưu trữ dữ liệu, quản lý vận hành hệ thống ở Việt Nam. Đó là chưa kể đến chi phí của các DN ngoài ngành có sử dụng các phần mềm, ứng dụng do các DN nước ngoài cung cấp. Theo luật này, họ sẽ phải chuyển đổi sang nhà cung cấp khác, nếu các DN phần mềm nước ngoài không đáp ứng các yêu cầu đặt ra của luật an ninh mạng của VN. Nhìn chung, chi phí (cả vô hình và hữu hình) của DN và các cơ quan nhà nước sẽ tăng vọt khi triển khai. Theo tôi được biết, luật ANM ở Trung Quốc tuy đã được thông qua, nhưng vẫn chưa thể đi vào triển khai trên thực tế, chính vì yêu cầu kỹ thuật về việc dời các trung tâm lưu trữ dữ liệu và kiểm tra, giám sát một lượng lớn dữ liệu là không thể đáp ứng được và làm phát sinh chi phí quá lớn khi đi vào vận hành thực tế. Điều này, trái với nguyên tắc tiết kiệm, và các nhà quản lý ANM phải cân nhắc đánh đổi giữa an ninh và hiệu quả/ thuận tiện khi vận hành. Đôi khi, để tiết kiệm chi phí, DN cần phải chấp nhận 1 mức độ rủi ro ở chừng mực nào đó, chứ không thể đảm bảo an toàn, an ninh 100%.

-          Về trách nhiệm và giải trình: luật ANM cũng trao quyền rất lớn cho các cơ quan an ninh trong việc thu thập dữ liệu khách hàng từ các DN, mà không có các yêu cầu tương ứng về tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, điều này sẽ dẫn đến sự lạm quyền, và có khả năng chồng chéo, và vi phạm đến các quyền riêng tư, và tự do kinh doanh, tự do ngôn luận đã được quy định trong các bộ luật khác. Ngay cả ở phạm vi tổ chức, chính sách an ninh tốt cần ngăn ngừa cả sự lạm quyền của người quản trị mạng, admin… để tránh việc vi phạm quyền riêng tư của nhân viên. Điều này đã được thảo luận và gây tranh cãi trong nhiều tình huống, bởi có những hành vi có thể không vi phạm quy định về an toàn an ninh nhưng sẽ vi phạm vấn đề đạo đức, và xâm phạm quyền riêng tư, tự do cá nhân. Các bộ luật tương tự ở các nước phát triển đều nhấn mạnh đến trách nhiệm bảo vệ an toàn dữ liệu và đảm bảo quyền riêng tư, và tự do truy cập của người sử dụng. Ở đây, cần nhấn mạnh sự cân bằng giữa an ninh và an toàn dữ liệu/ thông tin. Luật ANM của VN quá chú trọng vào an ninh, tính dễ kiểm soát, mà xem nhẹ tính an toàn, riêng tư, và thuận tiện của người sử dụng.

-          Về tiếp cận tích hợp và toàn diện: luận ANM của VN chưa xem xét vấn đề an toàn an ninh thông tin dưới nhiều góc nhìn của các bên liên quan, mà chỉ quan tâm đến góc nhìn của cơ quan quản lý, mà cụ thể là Bộ Công An. Điều này, sẽ bỏ qua những góc nhìn khác cũng rất quan trọng trong tổng thể bức tranh về an ninh mạng, như: cá nhân, nhà kỹ thuật, nhà khoa học, doanh nghiệp, Hiệp hội doanh nghiệp, Bộ Công thương (Cục TMĐT), Bộ KH-CN (Cục SHTT)… Theo cá nhân tôi, bộ luật này đòi hỏi sự hiểu biết sâu về CNTT-VT, một lĩnh vực có sự thay đổi rất nhanh chóng, vì vậy, cần có sự tham gia ý kiến, tư vấn và phối hợp của các bộ ngành, đặc biệt là Bộ KH-CN, hiệp hội CNTT, doanh nghiệp và người tiêu dùng… thì mới đảm bảo tính tích hợp và toàn diện của các chính sách đề ra, cũng như hạn chế sự chồng lấn của luật ANM với các bộ luật hiện hành có liên quan.

-          Về tuân theo các ràng buộc xã hội: bất kỳ luật mới nào được ban hành cũng cần phù hợp với các ràng buộc đã có trước đây, và phải tương thích với các thỏa thuận VN đã ký với quốc tế. Trái với tinh thần hội nhập quốc tế và tự do hóa thương mại, luật ANM của VN đã hạn chế sự tự do kinh doanh, tự do biểu đạt và tự do truy cập, mà LHQ đã xem là những quyền căn bản của con người. Chính vì vậy, các tổ chức quốc tế và chuyên gia về an ninh mạng cũng đã có những kiến nghị với chính phủ VN về khả năng vi phạm các cam kết quốc tế khi VN thông qua luật ANM. Vừa rồi, chúng ta đã thấy các cuộc biểu tình ôn hòa của người dân ở cả 3 miền đất nước để phản đối luật đặc khu và an ninh mạng, điều này phản ánh mối quan tâm rất lớn của xã hội đối với 2 vấn đề này. Đặc biệt, cả 2 vấn đề đều ít nhiều liên quan đến Trung Quốc, một thế lực đang gây đe dọa cho thế giới về an ninh cả trên thế giới thực và thế giới ảo. Luật ANM này được cho là bản sao chép từ luật ANM của Trung Quốc, bởi sự giống nhau đến kinh ngạc của 2 bộ luật. Không lo sao được khi cả Mỹ và Úc đều chỉ ra các thiết bị viễn thông sản xuất bởi Huawei (TQ) là có chip gián điệp, trong khi hầu hết các thiết bị ở VN đều sử dụng linh kiện của Huawei. Các trung tâm phân tích dữ liệu từ các cuộc tấn công mạng, lấy cắp dữ liệu… gần đây đều cho thấy chúng được thực hiện từ TQ bởi các tổ chức thân chính phủ hoặc được tài trợ bởi chính phủ TQ. Cần phải xem xét những quan tâm của người dân, xã hội trong việc ban hành và xây dựng luật ANM thì nó mới có thể đi vào cuộc sống, giúp đảm bảo mọi người tuân theo và đạt được mục tiêu của bộ luật ANM là xây dựng 1 không gian mạng an toàn, lành mạnh.

Hơn nữa, một chính sách đầy đủ về an toàn an ninh máy tính trong 1 tổ chức thường bao gồm 3 thành phần như sau:

1.      Một phát biểu chung về chương trình an ninh máy tính của tổ chức.

2.      Các chính sách gắn với từng vấn đề cụ thể.

3.      Các chính sách gắn với từng hệ thống thông tin cụ thể.

Luật ANM hiện nay của VN vừa được thông qua dường như chưa đi vào các vấn đề cụ thể đang còn gây tranh cãi, hay các hệ thống cụ thể. Điều này có lẽ do nhóm soạn thảo cũng chưa có đủ thông tin về các vấn đề ANM mà VN đang gặp phải, hoặc phải cần thêm nhiều thông tư, văn bản hướng dẫn đi kèm. Để có thể đưa ra được các chính sách cho từng vấn đề cụ thể, đòi hỏi nhóm soạn thảo luật ANM cần phải phân tích dữ liệu về các vấn đề an toàn, an ninh thông tin hiện nay ở VN và trên thế giới một cách kỹ lưỡng. Trên cơ sở đó, mới có được các chính sách phù hợp với bối cảnh VN, và đảm bảo theo kịp tốc độ phát triển nhanh chóng của lĩnh vực này. Chỉ có trên cơ sở phân tích các vấn đề rủi ro có thể gặp, các thành phần của HTTT dễ bị tổn thương, tần suất xuất hiện, mức độ nghiêm trọng, chi phí cài đặt các giải pháp ngăn ngừa… nhà quản lý mới sắp được thứ tự ưu tiên của các vấn đề cần quan tâm, từ đó, hình thành nên các chính sách chung và riêng phù hợp, giúp đảm bảo sự phát triển lành mạnh của không gian mạng, làm nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế và xã hội trong thời đại kỹ thuật số.

Hơn nữa, luật hay chính sách cần phải đi kèm với các biện pháp kỹ thuật phần cứng, phần mềm, con người và hạ tầng phù hợp. Với đà tiến triển như vũ bão của CMCN 4.0, chúng ta cần những chuyên gia am hiểu về các khái niệm mới, như: dữ liệu lớn, điện toán đám mây, internet của vạn vật, thực tại ảo, kinh tế số… Trong thời đại kỹ thuật số, luật ANM là rất cần thiết, và nên được xây dựng một cách kỹ lưỡng bởi những người am hiểu. Nếu những người đề xuất và bấm nút thông qua luật ANM mà thiếu sự am hiểu cần thiết về lĩnh vực này, thì đó sẽ là một sự rủi ro rất lớn cho đất nước về an toàn, an ninh mạng trong tương lai. Hy vọng, bài viết này sẽ góp phần giúp chúng ta hiểu thêm về một số khái niệm liên quan và nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề ANM. Nếu may mắn, thì biết đâu những góp ý này sẽ góp phần giúp VN có được một bộ luật ANM tốt hơn cho đất nước. Mong lắm thay!