Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Saturday, February 27, 2021

Chèo thuyền

Chèo thuyền 


Chèo, chèo, vượt trùng khơi
Đưa thuyền ta đi tới
Lướt, lướt... trước mắt ta
Giấc mơ - ôi cuộc đời!

Buồn, buồn, nhìn dòng nước
Bóng hình ai ngày trước
Nhớ, nhớ... những tích xưa
Thế gian - bao xuôi ngược!

Nhìn, nhìn, thuyền ta trôi
Hai bờ như xa xôi
Lắng, lắng... muôn xao động
Phút giây - thật tuyệt vời!

PQT - 2/2021

---

(Dựa theo lời bài hát "Row Row Row your boat")

Wednesday, February 17, 2021

NGHĨA VỤ VÀ QUYÊN LỢI CỦA QUỐC DÂN

NGHĨA VỤ VÀ QUYÊN LỢI CỦA QUỐC DÂN

Có thể nói ở mỗi quốc dân, người nào cũng đều có hai vai trò. Thứ nhất là với tư cách của một người dân đứng dưới chính phủ, tức là vai trò làm "khách". Thứ hai là trên cơ sở mọi người dân trong đất nước thống nhất tự nguyện kết nối thành một công ty mang tên "quốc gia", đề ra quy định, luật pháp và đưa "quốc gia" vào hoạt động, tức là vai trò làm "chủ".

Tôi giả dụ thế này. Có 100 thị dân định lập công ty thương mại gì đó. Mọi người cùng bàn bạc quyết định thành lập, đề ra quy chế nội quy rồi đưa công ty vào hoạt động. Khi đó cả 100 người đều là chủ nhân của công ty. Và dựa vào những điều đã cùng nhau quy định, mọi người thống nhất tuân theo nó, thì khi đó 100 người đồng thời cũng là nhân viên công ty.

Đất nước giống như công ty, nhân dân giống như nhân viên, mỗi người vừa đứng trên vị trí cai trị vừa đứng trên vị trí duy trì sự cai trị ấy, vừa là chủ vừa là khách.

Đứng trên góc độ là "khách", thì mọi quốc dân ai cũng phải tôn trọng luật pháp, đồng thời không được quên rằng "tất cả mọi người đều bình đẳng". Anh không xâm phạm đến quyền lợi của tôi thì ngược lại tôi cũng không được cản trở quyền lợi của anh. Anh có niềm vui của anh thì tôi cũng có niềm vui của tôi. Không được chiếm đoạt niềm vui của người ta. Không được giết người, không được thậm thụt mật báo, bới móc dựng chuyện cho người khác. Việc tuân thủ luật pháp, tôi cũng như anh phải tuân theo quy định như nhau.

Luật pháp do chính phủ lập ra, cho dù có nhiều điểm rắc rối, xa rời thực tế, thì cũng không có đạo lý nào cho phép chúng ta tùy tiện thích thì theo, không thích thì vi phạm. Ngay cả việc đại sự như quyết định chiến tranh, hay ký các hiệp ước ngoại giao cũng đều thuộc thẩm quyền của chính phủ. Quyền hạn đó, vốn dĩ là thỏa thuận với quốc dân và chúng ta đã trao cho chính phủ. Vì thế, nếu không can hệ tới đại sự thì không nên tranh luận.

Nếu quốc dân chúng ta quên tinh thần này, kể cả trường hợp cách xử lý của chính phủ trái hẳn với tôn chỉ mục đích của chúng ta đi chăng nữa, chúng ta cũng không nên tranh cãi tùy tiện, không thể xuất phát từ lợi ích nhỏ mà xóa bỏ thỏa thuận, bạo động khiêu khích gây ra chiến tranh với ngoại bang, như thế nền độc lập của nước ta một ngày cũng không mong giữ nỗi.

Điều này cũng giống như ví dụ về công ty thương mại mà tôi đưa ra nêu trên. Trong số 100 thành viên có 10 người được chọn vào hội đồng quản trị. Dù có bất mãn hay không hài lòng với cách làm của 10 người đó thì cũng không vì thế mà 90 người còn lại, tự ý làm theo suy nghĩ của riêng mình. Chẳng hạn 10 thành viên hội đồng quản trị muốn nhập rượu bán thì 90 người kia lại muốn nhập gạo về. Bàn bạc đôi co không ai chịu ai, rồi mạnh bên nào bên ấy làm, quên hẳn những điều đã quy định với nhau, thì thử hỏi việc kinh doanh của công ty sẽ ra làm sao? Chẳng phải là mọi sự chia rẽ đều dẫn tới tổn thất khiến cho tất cả 100 người đều phải gánh chịu đó sao?

Vì thế nếu mới chỉ cảm nhận luật pháp còn sai, bất cập thì không thể coi đó là cái cớ để phá bỏ nó. Và giả sử sự bất chính, bất cập có là sự thực đi chăng nữa thì cũng phải bình tĩnh kháng nghị, kiên trì kháng nghị đến khi chính phủ phải sửa đổi mới thôi. Khi chính phủ cố tình làm ngơ, thì hợp sức lại kiên nhẫn chờ đợi thời cơ.

Nếu đứng trên góc độ chủ nhân để bàn thì quốc dân một nước cũng chính là chính phủ của nước đó. Vì sao vậy? Đương nhiên toàn thể quốc dân không thể tất cả đều làm chính trị. Chúng ta thỏa thuận với nhau lập ra chính phủ, chúng ta quyết định giao cho chính phủ thi hành luật pháp với tư cách là người thay mặt cho chúng ta.

Vì lẽ đó, nhân dân là chủ nhân của đất nước, là gia chủ của người cai trị và chính phủ là người đại diện, người cai trị. Giống như từ trong số 100 người lập công ty, chọn ra 10 người vào hội đồng quản trị tức là vào chính phủ, số 90 người còn lại là nhân dân. Cho dù nhân dân - số 90 người còn lại - không trực tiếp làm các sự vụ quan trọng, nhưng một khi đã giao phó cho 10 thành viên thay mặt mình thì nếu suy xét thật kỹ thì bản thân mỗi chúng ta chẳng phải là chủ nhân của công ty đó sao.

Mặt khác, 10 người trong hội đồng quản trị, hiện đang điều hành hoạt động của công ty, nhận được sự tin cậy của nhân viên, gánh trách nhiệm nhằm đáp ứng tình cảm đó, vì thế phải đem hết sức mình trong công vụ của công ty, không được nghĩ tới cái lợi cho bản thân. Bây giờ nếu thử suy nghĩ điều trên, người ta thường gọi việc tham gia vào chính phủ là công vụ, việc công. Gốc gác của từ này là công việc của chính phủ không phải là sự vụ cá nhân của các quan chức. Mà nó có nghĩa là thay mặt cho nhân dân, thực hiện việc công, việc chung cho cả xã hội, để cai trị toàn bộ đất nước.

(Nguồn: Khuyến học - Fukuzawa Yukichi)

Wednesday, February 10, 2021

Xuân Co-vid


Xuân Co-vid


Xuân này khác với mấy xuân xưa

Co-vid lan tràn thuốc chữa chưa

Vắc-xin sắp có, còn xa lắm

Dịch bệnh bùng hoài, tết chẳng chừa

Kinh tế một năm nhiều vất vả

Đường hướng tương lai vẫn mịt mờ

Mong cho xuân tới thôi co-vid

Bình an, hạnh phúc, lại... như xưa.


PQT - Cuối năm Canh Tý

Monday, February 8, 2021

KHAI PHÁ VĂN MINH LÀ NHIỆM VỤ CỦA TẦNG LỚP TRÍ THỨC TRUNG LƯU

KHAI PHÁ VĂN MINH LÀ NHIỆM VỤ CỦA TẦNG LỚP TRÍ THỨC TRUNG LƯU

Văn minh của một quốc gia, không phải do chính phủ sáng tạo từ trên xuống và cũng không phải do thường dân làm được từ dưới đưa lên. Văn minh của một quốc gia phải do tầng lớp giữa - giai cấp trung lưu - có tri thức, kiến thức, động não trước thời cuộc, suy nghĩ hợp lòng dân thực hiện. Có như vậy mới mong thành công.

Lịch sử của các quốc gia Tây Âu cho thấy sự phát triển công thương nghiệp ở các nước này không phải do chính phủ tạo ra. Mà tất cả đều là thành quả được sinh ra từ sự lao tâm khổ tứ, từ qua trình lao động trí óc cật lực, từ quá trình nghiên cứu tìm tòi đầy gian nan vất vả của các học giả thuộc giai cấp trung lưu.

Đầu máy hơi nước là phát minh của Watt. Đường sắt là thành quả công phu của Stevenson. Người nghiên cứu và tìm ra nguyên lý kinh tế là Adam Smith. Họ đều thuộc tầng lớp giữa, không phải bộ trưởng trong nội các chính phủ và cũng không phải là công nhân trực tiếp sản xuất. Họ thuộc giai cấp trung lưu, có tri thức, tìm tòi nghiên cứu, nhờ đó mà làm thay đổi bộ mặt xã hội.

Để mọi cá nhân có thể nghiên cứu, phát minh và ứng dụng kết quả rộng rãi trong xã hội, giúp ích cho cuộc sống thì cần phải tổ chức các công ty, phải khởi nghiệp trong khu vực tư nhân. Bảo hộ và tạo mọi điều kiện cho các công ty tư nhân phát triển là nhiệm vụ và trách nhiệm của chính phủ. Khai phá văn minh là công việc của khu vực tư nhân, bảo hộ là công việc của chính phủ. Có như thế thì mọi người dân mới không dửng dưng, mới tự hào "công cuộc văn minh hóa" là công cuộc của chính họ, chứ không phải là vật sở hữu riêng của chính phủ. Có như thế thì nhân dân mới vui sướng đồng cảm với mọi phát minh sáng chế trên đất nước mình và càng muốn đồng lòng hợp sức sao cho mình không thua kém phương Tây. Chỉ có như vậy văn minh mới làm tăng chí khí của dân, mới trở thành sức mạnh hậu thuẫn cho nền độc lập của đất nước.

Thử nhìn vào công cuộc văn minh đang diễn ra trên đất nước ta mà xem, tôi chỉ có thể nói rằng chúng ta đang làm ngược với quy luật.

Ở nước Nhật chúng ta hiện nay, người chủ trương thúc đẩy văn minh, gìn giữ độc lập trước áp lực phương Tây là những người thuộc tầng lớp giữa trong xã hội, là các nhà trí thức và đơn độc chỉ có họ. Nhưng số đó cũng chỉ là thiểu số ít ỏi. Còn  đa phần các trí thức đều thiếu con mắt nhận biết thời cuộc. Họ yêu quý và lo giữ chỗ cho bản thân hơn là lo lắng, ưu tư cho đất nước. Đối với họ, gió chiều nào theo chiều ấy. Đa số các trí thức kiểu này luôn rình rập tìm kiếm lợi ích trước mắt, săn đón cơ hội leo vào hàng "quan chức", sa vào các chức vụ quản lý vặt vãnh, tiêu phí thời gian bằng những việc vô bổ, xa rời công việc nghiên cứu, học thuật. Họ thõa mãn với quyền cao bổng hậu. Tệ hại hơn nữa, họ lại tự cao tự đại: "Uyên bác như chúng tôi đã tập trung hết trong hàng ngũ chính quyền rồi, trong xã hội đâu còn ai?".

Tôi buộc phải nói rằng những ngươi trí thức như vậy là nỗi bất hạnh cho công cuộc văn minh đất nước. Lẽ ra phải đảm nhiệm vai trò mở mang, nuôi dưỡng văn minh với tư cách của người trí thức, thì họ lại vùi đầu vào việc kiếm lợi cho bản thân, họ chẳng bận tâm đến sự thoái hóa của tinh thần học vấn trong xã hội, đất nước ra sao họ cũng mặc. Như thế mà vẫn tự cho mình là trí thức được sao?

Đó là một thực tế đáng hổ thẹn.

May sao, trường tư thục Keio của chúng ta không có ai chạy theo trào lưu đang thịnh hành nói trên. Kể từ khi sáng lập, dù đơn độc nhưng trường chúng ta chưa bao giờ đánh mất niềm tự hào, dù phải "đơn thương độc mã" trong xã hội hiện tại, chúng ta đã, đang và vẫn tiếp tục vun xới, nuôi dưỡng tinh thần độc lập. Chúng ta chỉ có một mục đích gánh vai nâng đỡ tinh thần độc lập trong nhân dân.

Chúng ta lẻ loi, đang đứng mũi chịu sào trong cơn cuồng phong, trong dòng nước chảy xiết, chúng ta đang phải gồng mình chống chọi với cả một trào lưu đang làm thoái hóa xã hội. Nhiệm vụ của chúng ta thật khó khăn. Nhưng chính lúc này đòi hỏi chúng ta phải có lòng quả cảm và tinh thần cương quyết.

Dũng khí của con người không sinh ra từ sách vở.

Đọc sách là phương tiện nâng cao học vấn.

Học vấn là phương pháp tiến tới thực tiễn.

Chính kinh nghiệm, sự từng trải sản sinh ra lòng quả cảm.

Hội Keio chúng ta, bất chấp khó khăn, bất chấp gian khổ, nguyện đem hết tri thức kiến thức có được, xây đắp con đường phát triển văn minh. Để đi tới đó, chúng ta không phân biệt, không từ nan bất kỳ lĩnh vực nào, ngành học nào. Chúng ta làm thương nghiệp, chúng ta tranh luận luật pháp, chấn hưng công nghiệp, khuyến nông, viết sách, dịch sách, phát hành báo, tất cả những gì liên quan tới văn minh.

Mỗi người chúng ta phải suy nghĩ về vai trò, sự đóng góp của bản thân, phải đi tiên phong trong nhân dân. Chúng ta cùng hợp tác với chính phủ.

Sức dân và sức chính quyền có cân bằng thì tiềm lực quốc gia mới gia tăng, nền móng độc lập của quốc gia mới vững chắc, có như vậy nước ta mới mong được bình đẳng với phương Tây.

Tôi tin rằng, vài mươi năm sau, cũng trong một dịp đón mừng năm mới, khi nhắc tới buổi sum họp hôm nay, chúng ta chắc sẽ cùng nói với nhau rằng: "Mới chỉ có nền độc lập mong manh như hồi đó mà chúng ta sung sướng đến vậy. Bây giờ đã sánh vai bình đẳng thực sự với phương Tây như thế này thì còn sung sướng đến nhường nào?". Như thế mới là niềm vui thực sự phải không các bạn.

Tôi muốn nói với các bạn trước khi cho phép tôi kết thúc.

Các bạn sinh viên. Các bạn hãy tự quyết định tương lai, chí hướng của chính mình theo mục đích của trường tư thục chúng ta từ ngày hôm nay, ngày đón năm mới này.

Tháng giêng năm Minh Trị thứ bảy (tức năm 1784)

Fukuzawa Yukichi (Nguồn: Khuyến Học)

Monday, February 1, 2021

Bài Ca Hay Nhất

 


Bài Ca Hay Nhất

Phạm Trường Linh

Chỉ có bài thơ viêt nên bằng nước mắt
bằng trái tim đau khổ
cuả mỗi người,
là bài thơ hay nhất
Cho dù anh chưa biết làm thơ,
Cho dù em không sành thưởng thức
Nhưng em sẽ vô cùng cảm động
Vì bài thơ viêt bằng máu tim anh
Của một đời vất vả

Trên con đường cô đơn
Và em
là tất cả.
Niềm tin trong mỏi mòn

Nhưng anh biết một điều kỳ diệu
Khi con người còn yêu
Là con người chưa chết
Là cuộc đời chưa hết
Là đâu đó trong mảng trời tuyệt vọng
Vẫn còn mầm hoa trái cho ngày mai,
Thế thì mỗi chúng ta phải sống
Cho một niềm hy vọng,
Giữa đất trời mênh mông...

Sunday, January 24, 2021

VẬN HỘI SẼ HÉ MỞ Ở NHỮNG NƠI PHÁT HUY ĐƯỢC CHÍ KHÍ CỦA MÌNH


VẬN HỘI SẼ HÉ MỞ 
Ở NHỮNG NƠI PHÁT HUY ĐƯỢC CHÍ KHÍ CỦA MÌNH

Cả ngàn năm qua, chính phủ nắm trong tay mọi quyền hành trên khắp đất nước. Từ quân đội, học thuật, công thương nghiệp cho tới cả những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống hằng ngày, không cái gì mà chính phủ không nhúng tay vào. Nhân dân chỉ còn biết nhắm mắt tuân theo các chỉ thị của chính phủ. Đất nước ta giống như tài sản riêng của chính phủ, còn nhân dân chẳng khác nào như những người ăn nhờ ở đậu vậy. Đất nước ta như quần đảo không người ở. Nhân dân ta mang tư tưởng như những kẻ ăn nhờ ở đậu trên mảnh đất này. Và thế thì quốc gia cũng chỉ như cái nhà trọ, để người dân tạm dừng chân trong cuộc đời họ mà thôi. Vì thế, đối với người dân, vận mệnh quốc gia không dính dáng gì đến mình cả, không phải là nơi để phát huy chí khí. Tư tưởng này bao trùm khắp mọi miền đất nước.

Trên thế gian này, mọi sự vật nếu không tiến bộ ắt sẽ thụt lùi. Còn nếu nỗ lực thì không thể thụt lùi mà chắc chắn sẽ tiến về phía trước. Chẳng có sự vật nào lại không lùi không tiến mà chỉ dậm chân tại chỗ cả.

Nhìn vào xã hội nước ta hiện nay, tôi có cảm tưởng như hình thái văn minh đang tiến lên, nhưng "phần hồn" của văn minh thì ngày càng suy giảm. Tôi muốn nói với các bạn thế này: Ngày xưa, dưới thời phong kiến Mạc phủ, chính quyền chỉ dùng sức mạnh cai trị dân. Nhân dân do yếu thế nên chỉ còn có cách là ngoan ngoãn phục tùng chính quyền, nhưng trong bụng thì không phục chút nào cả. Họ sợ sức mạnh của chính quyền nên phải theo, và bề ngoài phải tỏ ra phục tùng.

Hiện nay, chính phủ Minh Trị không những có sức mạnh mà còn có trí tuệ nữa. Chính phủ Minh Trị đang đảm đương, xử lý mọi vấn đề bằng sự mẫn cảm, hết sức nhanh nhạy.

Chưa đầy 10 năm sau khi lên nắm quyền, chính phủ đã cải cách toàn bộ hệ thống giáo dục, quân đội, xây dựng hệ thống đường sắt, thành lập mạng lưới bưu điện, điện tín, xây dựng những công trình kiến trúc bằng đá, xây dựng hệ thống cầu cống bằng sắt thép... Tính quyết đoán, năng lực hành động và những kết quả đạt được của chính phủ thu hút sự quan tâm chú ý của dân chúng.

Nhưng trường học là trường học của chính phủ, quân đội là quân đội của chính phủ. Đường sắt, bưu điện, điện tín, công trình kiến trúc bằng đá, cầu cống bằng sắt thép cũng như vậy. Tất cả đều của chính phủ.

Người dân suy nghĩ về những việc trên như thế nào? Và dân chúng nói với nhau ra sao? Họ bảo rằng: "Chính phủ hiện nay vừa có sức mạnh vừa có đầu óc, nên chẳng ai có thể đọ nổi. Chính phủ ở trên cao trị quốc, mọi thứ đã có chính phủ lo nghĩ và làm cho rồi. Còn chúng ta là loại dân đen ở dưới, cứ có cái ăn để sống là được. Việc nước là chuyện đại sự, là việc của "các quan trên", chứ đâu phải là việc của lũ dân đen mình mà lo."

Nhưng tôi xin phân tích thế này: chính quyền phong kiến Mạc phủ trước đây, chỉ biết dùng quyền lực để cai trị, còn chính phủ Minh Trị hiện nay, dùng cả sức và trí để cai trị. Chính quyền cũ không biết thủ thuật để cai trị dân, còn chính phủ mới bây giờ thì ngược lại. Chính quyền cũ dùng mọi cách làm tê liệt, làm rã rời sức dân, chà đạp tới tận chân tơ kẻ tóc của dân, quy định cả cách ăn mặc, đi đứng của mọi thành phần trong xã hội, trừng phạt nghiêm khắc mọi sự lẫn lộn. Còn chính phủ hiện nay thì cai trị khéo léo tới mức người dân bị lấy mất cả "hồn lẫn xác" mà cũng không hay. Vì thế dân ta thời trước sợ chính quyền như sợ ma quỷ, còn dân ta ngày nay thì tôn chính quyền lên như thần thánh để thờ.

Nếu dân ta không tỉnh ngộ, không nhận ra sự "lầm tưởng" mà cứ thế quen dần với tình trạng như hiện nay, thì chính phủ có đổ công đổ của để hoàn thiện "cái vỏ" văn minh nhiều đến đâu đi nữa cũng chỉ tổ làm cho khí lực trong dân ngày một mất đi và như thế tinh thần - phần hồn của văn minh - cũng suy yếu theo.

Lẽ ra phải tự hào về quân đội thường trực của chính phủ là để bảo vệ đất nước, thì ngược lại dân chúng vẫn nhìn quân đội như một công cụ để chính quyền đe dọa và đàn áp. Lẽ ra phải tự hào về trường học, đường sắt - là bằng chứng tiến bộ của văn minh - thì ngược lại dân chúng coi chúng như vật phẩm được chính phủ ban tặng. Thói ỷ lại vào chính phủ cứ thế mà gia tăng.

Tinh thần độc lập trong nhân dân khô héo, teo tóp như thế, cái gì cũng "sợ hãi" mà trông cậy vào chính phủ của nước mình thì thử hỏi bằng cách nào và làm như thế nào mà Nhật Bản chúng ta có thể đấu tranh để văn minh so với phương Tây được?

Vì thế tôi nghĩ: Nếu không vun đắp chí khí độc lập trong nhân dân, mà chỉ lo hoàn thiện cái vỏ bề ngoài của văn minh trên đất nước ta, thì điều đó cũng là vô nghĩa. Ngược lại, cái vỏ văn minh đó chỉ khiến cho lòng dân thêm yếu đuối, hoang mang.

(Nguồn: Khuyến học - Fukuzawa Yukichi)

Tuesday, January 19, 2021

Có Những Giấc Mơ

 Có Những Giấc Mơ

Tôi đi giữa hai hàng cây mướt xanh, hai bên đường hoa thơm nở rộ, tiếng chim vang lừng như chào đón, hồn lâng lâng thanh thoát…Tôi có cãm giác như mình đang đi lên, đi lên cao, càng lúc càng cao hơn… rồi có tiếng gió vút bên tai, tôi nhắm mắt lại, và khi mở mắt ra thì cảnh vật đã khác hẳn lúc nảy. Một màu vàng tươi khắp nơi, mặt đất cũng thế – vàng ươm một màu- những cây to rủ cành, lá phát ra những tiếng trong suốt như thủy tinh mỗi khi phơ phất gió, những đóa hoa rất lạ nở xòe to như cánh quạt , hương thơm ngào ngạt trong không gian, mùi thơm rất dễ chịu, có tiếng chim văng vẳng và là những lời ca nghe rất vui tai, bất giác tôi cũng buộc miệng hát theo. Chỉ là những tiếng la..la..lá..la… nhưng nghe rất nhịp nhàng…linh động…Tôi không còn nhớ gì đến quá khứ, hiện tại hay tương lai mà chỉ có cảm giác là mình muốn ở lại đây mãi mãi…rồi tôi chợt tĩnh giấc ngủ trưa trong tiếng động nhịp nhàng, rì rào của chiếc quạt máy nhỏ trong phòng. Hay là mình vừa lọt vào một cảnh giới nào đấy trong ba ngàn đại thiên thế giới nầy ? tôi nghĩ ngợi vẫn vơ và một ngày bình thường nữa lại trôi qua….

Tôi đứng trên bờ một giòng sông. Dưới kia, nước cuồn cuộn chãy, đục ngầu và…đầy dẫy những con người đàn ông có, đàn bà có, trẻ con cũng có…đang lặn ngụp dưới sông một cách thích thú. Họ không hề biết mình đang tắm táp trong một giòng nước bẩn thỉu vô cùng. Tôi còn nhìn thấy cả những xác thú vật bập bềnh trôi…Nhưng một thôi thúc nào đấy khiến tôi- dù ghê tởm- cũng vẫn muốn xuống đấy để tắm cùng với họ hay ít ra là để có dịp nói cho họ biết là họ đang ở đâu và mức độ dơ bẩn của giòng nước khi tôi đứng trên bờ nhìn xuống. Nhưng…tôi thật sự phân vân không biết có nên không, khi thấy họ tỏ ra vô cùng thích thú được vẫy vùng trong làn nước bẩn thỉu đó. Có thể là đối với họ nó vẫn trong sạch và mát mẻ lắm, bỡi cộng nghiệp của họ thấy như thế mà, tôi nhớ lại trong kinh sách tôi đã đọc có những đoạn miêu tả điều đó : cùng là nước, đối với người có thể uống được, tắm được nhưng đối với các loài cá, rồng là đền đài cung điện, đối với cõi trời là lưu ly..v..v..tùy theo biệt nghiệp mà thấy khác nhau như thế. Có lẽ vậy, cùng là một thứ vật chất nhưng đối với chủng loại nầy là thứ ghê tởm còn đối với chủng loại khác lại là thực phẩm bổ dưởng thì sao ? cho nên tôi bơi lội cùng họ một lát rồi lên bờ không nói gì cả, bỡi tôi có nói chắc họ cũng không nghe đâu.Có bàn tay của ai đó đặt nhẹ trên vai tôi, hơi giật mình, tôi quay lại và không muốn tin vào mắt mình nữa : Một thiếu nữ xinh đẹp cực kì và dịu dàng trong bộ thanh y đứng cạnh tôi từ bao giờ không biết, cô không nói gì, nắm tay tôi kéo đi. Như có một ma lực huyền bí, tôi ngoan ngoản đi theo cô qua những cánh rừng xanh, những đồi cỏ rậm, vào sâu hơn trong rừng đầy hoa thơm. Đôi lúc tôi muốn dừng lại hái hoa lạ nhưng chân tôi không thực hiện được ý mình, tôi cứ lướt đi theo cô một cách tự động qua rất nhiều khu rừng…Cô dẫn tôi đến một cánh đồng xanh, cạnh đó có một giòng sông trong suốt, nước trong đến độ tôi nhìn thấy cả dưới lòng sông có rất nhiều sõi trắng. Cô mỉm cười thân thiện và chỉ xuống như bảo tôi nếu muốn tắm thì con sông nầy tốt hơn gấp mấy lần con sông khi nảy. Nhưng tôi cứ ngần ngại, có lẽ vì nơi đây hoang vắng quá, giòng nước trong trẽo quá nên không ai nở quấy cho bẩn lên…Tôi định bày tỏ ý nghĩ của mình nhưng khi tôi quay lại tìm thì thiếu nữ xinh đẹp ấy không thấy đâu, chỉ có tiếng rì rào của ngàn lá rừng xào xạt chung quanh. Tôi hơi ngần ngại trước khi nhún chân xuống nước. Nước lạnh buốt…khiến tôi tĩnh giấc.. cũng chỉ là giấc mơ mà sao tôi cứ mãi suy nghĩ mất mấy ngày trời. Tôi liên tưởng đến một điều gì đó hay hay về hai con sông trong mơ và cô thiếu nữ xinh đẹp ấy cứ mĩm cười với tôi mỗi khi tôi nhắm mắt lại để nghĩ đến cô…

Tôi cố vùng vẫy nhưng không thể được, có đôi bàn tay của ai đó nắm chặt lấy chân tôi kéo xuống, kéo xuống, tôi muốn vươn lên, muốn thoát ra sự níu kéo ma quái kia, và rồi sức tôi yếu dần, yếu dần… tôi bị lún xuống càng lúc càng sâu… Cái hố sâu thăm thẳm như nuốt chửng lấy tôi, rồi tôi lọt vào vùng tối đen như mực. Nhìn chung quanh, tôi không thể thấy được gì cả, tuy nhiên mũi tôi vẫn nhận ra một thứ mùi hăng hắc, tanh tanh khó chịu của nơi ẩm thấp lâu ngày xông lên nồng nặc. Khi đã quen dần với bóng tối, tôi nhận ra mình đang ở dưới một miệng giếng sâu thì phải. Hoảng hốt, tôi đứng lên nhưng rồi lại ngồi phệch xuống vì có đứng mãi cũng thế thôi, có ai biết mình ở dưới này đâu mà hòng kêu cứu…phải thích hợp với hoàn cảnh mới thôi, nếu muốn sống còn, chỉ có mình tự cứu mình nếu như không muốn bị chôn vùi trong quên lãng của người đời. Mà ai đó đã kéo mình xuống đây tôi cũng không biết nữa. Chung quanh vắng lặng đến rợn người. Tôi không sợ và cảm thấy lo. Nếu như không có ai phát hiện, tôi sẽ chết đói ở dưới này mất thôi…làm thế nào bây giờ?? Rồi tôi lịm đi trong nỗi sợ hãi khôn nguôi…

“Hãy theo ta” trong cơn mê chập chờn tôi nghe có tiếng nói thì thào bên tai, tôi chưa kịp nhìn ra thì thấy mình bị nhấc bổng lên bỡi một thần lực của ai đó, rồi bên tai tôi là tiếng gió rít, tiếng cây cối rung chuyển, tiếng gầm gừ của thú rừng…khi tôi mở mắt ra thì…ôi ! tôi không thể nào tin được ở mắt mình : trước mặt tôi là những cánh đồng trãi dài mút mắt nhưng không một bóng người, chỉ có đàn cò trắng bay lượn, thỉnh thoảng hạ cánh xuống rĩa lông trên sóng lúa bạt ngàn. Trên không mây trắng từng cụm lớn trôi bềnh bồng như những tảng bông gòn trắng muốt. Tôi đang ở đâu đây? Tôi cũng không biết nữa, nhưng một cảm giác lâng lâng dễ chịu làm cho tôi không muốn nghĩ ngợi nhiều. Dưới gốc cây xa xa, có những bóng đen đang di động, tôi tò mò đến gần…thì ra đó là mấy ông lão đang đánh cờ giống như mấy ông tiên tôi thường thấy trong tranh. Hay là mình đang ở cảnh tiên nào đấy mà trong sách thường nói đến ? Rồi tôi bị đánh thức bỡi tiếng đồng hồ reo. Nhìn ra cửa sổ, tôi thấy những chú chim sẻ trên mái nhà bên cạnh nhảy nhót hồn nhiên như những chú bé con, tôi mĩm cười một mình nghĩ đến giấc mơ không đầu, không đuôi của mình. Giấc mơ là gì nhỉ ? Có phải đó là sự hoạt động của đáy tầng vô thức của con người ? những hình ảnh trong mơ có thật không? Nếu không thật tại sao ta thấy được? Nếu là thật tại sao khi mở mắt ra thì nó không còn? Cũng chỉ là huyển ảnh như chúng ta mà thôi- tôi nghĩ thế- sở dĩ chúng ta tồn tại lâu hơn giấc mơ là vì chúng ta được kết hợp bỡi những lớp quang minh của kiên cố vọng tưởng, tạo thành cái sắc thân nầy.

Mỗi lần coi TV, khi có sự cố, các hình ảnh trên màn hình nhoè ra, tôi thấy những chấm sáng nhiều màu tan ra rồi tụ lại tạo thành hình ảnh của các diễn viên, con người trên ấy, tôi lại cho rằng lớp quang minh của kiên cố vọng tưởng ấy đang tan rã nên truyền hình bị hư, không tập họp được hình ảnh nữa. Cũng như chúng ta, hình hài được kết hợp bỡi biết bao là yếu tố : nào sắc thân, khối vật chất kiên cố trụ được khá lâu là do lớp quang minh của kiên cố vọng tưởng tạo ra… sự cảm thọ vui, buồn, yêu, ghét hay cảm giác bốn mùa ấm lạnh đổi thay là do hư minh vọng tưởng tạo ra… tư tưỡng, ý nghĩ của người nầy luôn dính mắc với một vật gì đó, một ai đó trong cuộc đời là do dung thông vọng tưởng sinh ra… sự trôi lăn luân hồi trong sáu cõi, hành động để tồn tại là do u uẩn vọng tưởng sinh ra… rồi ý thức về kiếp sống, về sự thọ sinh, về việc chọn cho mình một nẻo về của tâm linh là do hư vô vi tế vọng tưởng sinh ra….tất cả đều là huyển ảnh, là giấc mộng, là bọt sóng đầu gành, là hình bóng trong mơ, là giọt sương buổi sáng, là tia chớp hiện hình trong cơn giông…rồi sẽ tan biến đi một sớm nào đó không còn lưu lại một vết tích gì cả. Bao nhiêu thế hệ đã qua đi, biết bao đổi thay từ cảnh vật đến con người…không một ai còn mãi trên đời nầy. Vậy thì…tại sao chúng ta cứ được sinh ra, lớn lên, làm đủ mọi việc rồi lụi tàn ? Chắc lại cũng do tham vọng làm người, việc làm chưa xong đã tới lúc chuyển kiếp nên chúng ta không cam lòng, quyết định phải quay trở lại để tiếp tục công việc còn dang dỡ trong tiền kiếp, cứ như thế, chúng ta trôi lăn…trôi lăn mãi mãi…liên tục…cho đến khi nào chúng ta ý thức được mình phải dừng lại thôi, để thay đổi quy trình nhàm chán của kiếp người, để nghỉ ngơi và để không đau khổ bỡi chia ly, mất mát, bệnh tật, già nua..v..v… Những giấc mơ trong cuộc đời có nhiều lắm nhưng thực hiện được hết những giấc mơ ấy thì không phải dễ …

Vân Hà (TTHA )

Wednesday, January 13, 2021

Kinh Hiền Nhân

Kinh Hiền Nhân (trích lược)

Ngày xưa, ở một quốc gia nọ, nhà vua vì tin dùng các quan nịnh thần và nghe lời hoàng hậu bất chính, nên đã khiến cho Hiền Nhân, một vị quốc sư tài đức, sinh lòng chán nản và quyết định rời đi. Dưới đây, là trích đoạn phần cuối của câu chuyện để mọi người cùng chiêm nghiệm. Ở xã hội nào, mà người lãnh đạo biết tôn trọng hiền tài, xa rời gian nịnh thì đất nước thái bình thịnh trị. Ngược lại, thì loạn lạc, lầm than, nhân dân đói khổ.

 nhân gian có một thứ cây tên là Phản Lệ. Người chủ trồng nó thì không được ăn trái, còn có kẻ muốn hái trộm thì trái lại sinh ra cho mà hái. Bệ hạ cũng như cây ấy: người giúp nước được an ổn lại hất hủi đuổi xô, còn kẻ nịnh thần gian dối phá tan việc triều chánh lại cầm ở lại cho ăn bổng lộc. Khách ở lâu, chủ nhà sinh nhàm chán, nên Hiền Nhân nầy phải đi vậy.

Nhà Vua kính cẩn thưa:

- Mạng người rất trọng, cúi xin Ngài giũ lòng từ nghĩ thương đến. Trẫm nay muốn đem thân tôn thờ Ngài hơn xưa.

- Bệ hạ nói thế, nhưng cũng chưa chắc gì làm được. Ý Phu nhân rất độc ácHiền Nhân nầy không nên ở lại làm chi, Hiền Nhân là vị Sa-môn mang bình bát khất thực, tự vui và dứt trừ tham vọng, giữ trọn giới luật của đạo và xa lìa tất cả tội lỗi.

Nhà Vua khẩn khoản:

- Ngài đã quyết định, Trẫm không thể cản ngăn. Nhưng xin Ngài chớ đoạn tuyệt, cúi mong một phen trở lại để lòng Trẫm khỏi ân hận.

- Nếu như Bệ hạ và Hiền Nhân nầy đều mạnh giỏi thì còn có lúc gặp nhau. Hôm nay Hiền nầy muốn vào núi để tu dưỡng tính tình, rèn thêm chí cả. Gần nhau để mà nghĩ đến chuyện ác hại nhau thì chi bằng xa nhau mà nhớ nhau trong tâm niệm lành. Người trí nghe thí dụ cũng đủ rõ; nay Hiền Nhân nầy xin đem một câu chuyện để thí dụ Bệ hạ nghe:

"Như người lấy mật xoa vào lưỡi dao, đưa cho con chó liếm, vì tham chút mật ngọt nên bị đứt lưỡi, mà chó không biết đau đớn. Nay bốn quan cận thần cũng thế: chỉ nói ngon ngọt ngoài miệng mà trong tâm dường như dao bén. Vậy Bệ hạ phải đề phòng cho lắm và từ đây về sau nếu gặp những sự kinh hãi, Bệ hạ thường nhớ đến Hiền nầy thì kinh sợ sẽ tiêu tan.

Loài chim cú chim mèo thì ưa ở nơi bụi rậm, chuột bọ thì ưa núp dưới đống rác đống rơm; chim chóc thì đậu trên cành; mà chỉ có con hạc là ưa ở gần ao nước đục. Mỗi vật đều có một tánh chất riêng, chí nguyện bất đồng, sự ưa thích có khác. Hiền Nhân nầy mến đạo, Bệ hạ thì ưa việc trị dân, đó là sự sai khác.

Những vật thô xấu cũng đều có chỗ cần dùng, không nên phí bỏ tồi tàn. Hạng người nào, dù bần tiện, ngu hiền đến đâu ta cũng không nên hất hủi. Họ đều là người hữu dụng, Bệ hạ phải hiểu như thế. Hiền Nhân cũng đã biết người, biết lời nói, biết ý nghĩ của họ thế nào rồi. Con chim ban đầu đậu ở cành thấp, sau nhảy lên nhánh cao. Hiền nầy thấy con Tân Kỳ sủa, biết rằng không ngoài thì trong, đã có sắp đặt mưu mô gì đó, nên trong lòng chán ngán, thôi để Bệ hạ chuộng mới quên cũ, Hiền nầy xin đi."

Nói xong liền đứng dậy mang bát, chống tích trượng ra khỏi thành.

Đức Vua cùng Phu nhân khóc lóc đi đưa, người trong nước lớn nhỏ không ai là không kêu rêu oán trách. Nhà Vua ủ rũ theo sau Hiền Nhân, hỏi bằng một giọng buồn rầu:

- Ngài đi thì Trẫm còn biết tin nhờ ai nữa ?

Hiền Nhân đáp:

- Có người con của chị Hiền Nhân nầy rất là hiền lành. Bệ hạ cũng nên đàm luận cùng nó. Lúc nào rảnh, Bệ hạ hãy cùng nó ra đi tuần hành trong nước và nghe những câu ca dao của dân chúng, nó có thể biết được trong nước thịnh suy, còn mất.

Nhà Vua đáp:

- Trẫm xin nghe lời Ngài dạy.

Rồi cùng đình thần và nhân dân làm lễ Hiền Nhân rồi tiễn người ra khỏi thành quá một đoạn đường.

Từ ấy về sau, nhân kẻ trung chính đi rồi, thì kẻ loạn thần tha hồ tung hoành, gian nịnh. Ngoài thì bốn quan cận thần cậy thế bắt ép lương dân, trong thì phu nhân dùng thói yêu nghiệt làm nhà Vua mê hoặc không còn nghĩ đến việc nước, chỉ dâm lung, ưa vui, ngày đêm vùi thân trong say đắm. Quan liêu cầm quyền tự do thâu thuế bắt ép nhân dân không một chút từ tâm nhân đạo. Kẻ lấy thuế chợ mà không thèm nhìn món đồ, người mạnh lấn hiếp kẻ yếu, bóc lột tàn sát lẫn nhau không kể gì đến pháp luật. Có kẻ lại bắt con gái của người về làm nô lệ, tỳ thiếp. Thân thuộc ly tán, tìm đường trốn tránh tản lạc mỗi người sống vất vưởng mỗi nơi, tai họa liên miên mà nhà Vua không bao giờ biết đến. Mưa gió không phải thời, trồng trọt mất mùa, nước loạn dân nghèo, sự đói khó đầy đường, tiếng than van oán trách phổ vào câu ca giao cảm động đến cả quỷ thầnNhân dân sầu khổ, lo sợ, chết không biết bao nhiêu, kẻ sống vừa than khóc vừa đi, không ai không nhớ tưởng và mong cầu Hiền Nhân độ trước.

Hiền Nhân, như chim ưng vua của loài chim, dẹp trừ được người gian ác, lại saün có lòng nhân từ thương xót mọi loài. Bây giờ còn người đâu nữa, để yên lòng dân và cứu muôn ngàn tai ách?

Con của chị Hiền Nhân tên là Đạo Nhân, sau khi đi qua quận huyện khác trở về, thấy trong nước loạn lạc, xóm làng hư hoại, nhân dân cùng khốn, bèn vào cung tâu với nhà Vua: "Tâu Bệ hạ! Các quan đại thần làm việc bất chính, buông tha kẻ trộm cướp, bắt kẻ vô tội, tàn hại nhân gian bết đường vô nhân đạoMuôn dân oán thán, quỷ thần giận dữ nên gieo nhiều tai họaĐâu đâu cảnh khổ cũng tràn lan mà Bệ hạ thì không hay biết gì cả.

"Nếu Bệ hạ không sớm trừ bọn loạn thần gian ác ấy thì sau nầy sẽ không còn một tên dân ?"

Nhà Vua nghe nói, rất là kinh hãi, hoảng sợ đáp:

Quả thật như lời Hiền Nhân dạy Trẫm khi trước. Trẫm đã sử dụng bốn tên loạn thần phá hoại nước nhà chẳng khác gì thả chó sói trong bầy cừu vô tội. Trẫm chắc thế nào dân chúng cũng bị khốn ách. Trẫm đã buông cương mặc cho con ngựa điên lôi kéo cỗ xe trị quốc, thế nào nó cũng kéo xe xuống hố sâu. Ngài đã đến đây thức tỉnh Trẫm và bảo Trẫm như thế, bây giờ Ngài có cách gì dạy Trẫm để trị an xã tắc được không?

Đạo Nhân thưa:

- Từ khi cậu tôi ra đi đến nay, trong nước bị rối loạn luôn, tất cả đều do bọn gian thần. Bệ hạ phải trù tính phương kế gì để hưng phục lại giang sơn. Nước nhà còn có thể hưng phục được. Xin Bệ hạ hãy cùng thần đi tuần hành một phen, để chính mắt Bệ hạ được thấy, chính tai Bệ hạ được nghe những nổi thống khổ rồi mới biết thế nào là đúng sự thật.

Nhà Vua liền cùng Đạo Nhân cải trang ra đi để dọ xét tình hình trong nước.

Vừa ra khỏi thành thì thấy một toán phụ nữ xiêm y rách rưới vừa đi vừa khóc. Đạo Nhân thấy thế liền hỏi: "Các chị sao mà khổ sở rách rưới như thế? Sao không lo làm ăn, hoặc có khó khăn lắm thì đi lấy chồng để nhờ chồng, tuổi các chị cũng đã lớn rồi kia mà."

Một người trong bọn trả lời:

- Vì nhà Vua cả. Phải chi nhà Vua rách rưới nghèo đói như chúng tôi thì mới bõ ghét.

Đạo Nhân bảo:

- Các chị nói như thế là không đúng rồi, vì nhà Vua là bực cao sang chỉ lo những công việc to tát, đâu có thì giờ lo cho các chị được. Các chị phải tự đi làm mà sinh sống lấy chứ.

- Không phải thế đâu . Vì Vua trị nước không minh, nên trong nước phải đói rách và loạn lạc. Ngày thì khốn với bọn quan lại tham ô vơ vét, đêm thì khốn với trộm cướp tứ tung, áo không đủ mặc, cơm không đủ ăn, vì thế còn ai thèm cưới gả chúng tôi nữa.

Đi một quãng nữa, nhà Vua gặp một bà già, áo không kín thân, hình hài gầy yếu, mắt lòa sờ soạng, vừa đi vừa khóc lóc. Đạo Nhân hỏi:

Bà già lo lắng gì mà khóc vậy?

Bà già ngửng lên đáp:

- Vì nhà Vua cả. Phải chi nhà Vua mà mù như lão đây thì mới đáng kiếp, lão sướng lắm vậy.

Đạo Nhân bảo:

- Bà nói như thế là lầm rồi, hễ già thì mắt mờ, nhà Vua có lỗi chi đâu?

- Đêm thì bị cướp, ngày thì bị quan lại nhiễm ô, phải chịu nghèo đói, nên lão đây mới phải hái rau lượm củi đổi gạo để nuôi sống, đạp phải độc trùng, vương phải độc khí nên mới bị mù què thế này. Vậy không phải lỗi của nhà Vua hay sao?

Vua tôi lại đi đến một quãng đường, thấy có người đàn bà đang lom khom nặn sữa bò. Con bò đá một cái, người đàn bà ngã lăn xuống đất, lồm cồm bò dậy, mắng:

- Phải chi mày đá hoàng hậu vợ Vua một đạp như vậy cho bõ ghét. Mày đá tao làm gì!

Đạo Nhân hỏi:

- Tự con bò dữ đạp bà, chớ nhà Vua, à quên, hoàng hậu vợ Vua có tội lỗi gì?

- Không lỗi à? Nhà Vua bất chính, vợ Vua xui xiểm, nước nhà mới rối loạn, không lo cấm ngăn trộm cướp, để nó bắt bò lành của tôi, chỉ để lại một con bò dữ, vắt sữa nó làm nó đạp một cái đau điếng người. Tại nhà Vua chớ ai nữa.

Đạo Nhân bảo:

- Tại bà không biết cách nặn sữa nên bị nó đá.

Người đàn bà đáp:

- Không phải thế đâu! Nếu nhà Vua ở chính thì Ngài Hiền Nhân sẽ ở lại đây, nước nhà đâu có bị loạn lạc.

Đi một lát nữa, đến khoảng đồng ruộng nhà Vua thấy một con chim đang mổ một con ếch. Con ếch lún vào bùn, mắng rằng: "Phải chi mày mổ Vua một cái như thế thì tao mới thích cho. Mày đừng mổ tao."

Đạo Nhân bảo con ếch:

- Ngươi bị con chim nó mổ, chứ đâu lỗi ở nhà Vua, nhà Vua đâu có giữ hộ cho ngươi được.

Con ếch đáp:

- Tôi không trông mong nhà Vua giữ hộ cho tôi đâu. Vì nhà Vua không ân nhuận, việc chính trị bất bình đẳng, bỏ phế việc cúng tế, bỏ phế việc dẫn thủy nhập điền, vì thế trời hạn, nước khô, thân tôi phải bày ra để cho con chim nó mổ.

Con ếch lại than:

- Nếu nhà Vua biết chấp giữ quyền chính thì bỏ một người ác lợi cho một nhà, bỏ một nhà ác lợi cho một làng, rồi sẽ đến cảnh một xã hội quốc gia thịnh trị. Vì không biết chấp giữ quyền chính nên nhân dân thất sở, thiên hạ kêu ca.

Liền đó, Đạo Nhân tâu Vua:

- Xin Đại Vương xét kỷ: trăm họ vô tội, khổ sở khóc than cảm động đến cả quỷ thần, đến nỗi con ếch mà còn thốt lời như vậy. Chắc Đại Vương cũng đã thấy rồi. Vậy xin hãy đuổi kẻ ác, để kiến thiết quốc gia lại trên nền tảng thiện chánh, để muôn dân hồi đầu trở lại. Tâu Đại Vương, bây giờ bắt đầu gieo giống lúa ở ruộng tốt, gặp mưa thuận gió hòa thì lo gì mùa màng không trúng.

Vua hỏi:

- Vậy theo ý Ngài thì nên giao phó trách nhiệm nầy cho ai?

- Bệ Hạ phải mau mau mời ngài Hiền Nhân trở về vì Ngài là người rõ biết thời cơ, nếu trở về thì trong nước sẽ lại được bình an.

Nhà Vua cùng Đạo Nhân trở về cung. Ngài gọi một sứ thần lên căn dặn:

- Nhà ngươi hãy vì Trẫm vào núi rước ngài Hiền Nhân về. Và nếu Ngài không về, ngươi sẽ thưa: "Hoàng thượng nay đã tự biết ăn nănmuôn dân oán trách nên Hoàng thượng lo buồn không ăn cơm được và đang mong mỏi Ngài về. Xin Ngài giũ lòng nhân từ thương xót chúng sanh." Nói như thế, Ngài biết trong nước loạn lạc và saün lòng thương xót, chắc sẽ trở về.

Sứ thần vâng mệnh ra đi, trải qua mấy hôm len lỏi trong núi rừng, mới đến được chỗ ngài Hiền Nhân ở. Sứ thần cúi đầu làm lễ và thưa:

- Kính bạch Ngài! Nhà Vua ân cầnhết lòng cung kỉnh, tự biết mình tội lỗi quá nặng, làm sai ý thánh nhân và để cho nước nhà loạn lạc trăm họ cùng khốn, nên đang mong mỏi Ngài trở về. Nhà Vua khóc lóc, nghĩ nhớ đến Ngài, không ăn uống gì được cả. Cúi xin Ngài mở lòng thương xót nhà Vua một phen nữa. Kính thỉnh Ngài trở về.

Hiền Nhân nghe nói, thương xót nhân dân, nên sửa soạn theo sứ giả trở vềDọc đường, thấy con khỉ chết khô, Ngài liền lột lấy da để làm tọa cụ.

Nhân dân trong nước nghe tin Hiền Nhân đã trở về, đều ra tận biên giới nghinh tiếp và mời Ngài về lại tịnh xá ngoài thành.

Nhà Vua mặc triều phục, ra tận tịnh xá yết kiến, làm lễ Ngài. Sau khi hỏi han, Vua ngồi lại một bên, vòng tay tạ tội, thưa với Hiền Nhân:

- Trẫm vì sơ sót suy nghĩ không đến nơi đến chốn, nên làm hại nhân dântrăm họ oán trách. Nay Trẫm một lòng chí thành cầu sám hối, xin Ngài tha thứ cho Trẫm bao nhiêu tội lỗi lầm lạc.

Hiền Nhân đáp lễ:

- Người có tội mà biết sám hối là hay lắm.

Rồi thấy bốn quan cận thần kề tai nói nhỏ, thầm thì với nhauHiền Nhân bảo:

- Các ngươi là người vô tội, sao không nói chuyện công nhiên, cần gì phải nói to nói nhỏ.

Bốn quan cận thần nổi giận:

- Ông làm Sa môn, lòng những mong mỏi phước trời, người người đều gọi ông là ông Hiền, lẽ ra ông không nên giết con khỉ mà lột da như thế.

- Các người mê hoặc lấy mình, không phân biệt cái gì là chân chánh, cái gì là tà ngụy. Bọn người làm điều ác đức, cái đó trời Phật đã biết, nên biết rằng khổ vui đều có trong luật nhân quả, không thể tránh được. Làm điều ác, tội ác sẽ theo đòi, làm điều lành, quả báo tốt sẽ đền trả, trọn đời không mất. Họa phúc tự mình, kẻ ngu tưởng là đâu xa cách. Bọn ngươi lấy việc ta lột da mà nạn rằng ta giết khỉ, điều ấy có giống việc gian ác giết hại của các người không? Lại cứ nói mạng người tại trời, làm lành không phước, làm ác không họa; phải biết rằng họa phước rõ ràng như vang theo tiếng, bóng theo hình, chứ không phải họa phước tự trên trời rơi xuống. Các ngươi làm ác mà không tự biết, muốn che dấu nhưng nào có che dấu được. Lại lấy sự chê bai ta mà cho là đắc sách. Trong bọn ngươi há chẳng có một người nói rằng: "Hễ người chết thì thần hồn tiêu diệt không sanh trở lại nữa." Lời nói ấy có phải là lời nói của bực thánh nhân chăng? Hay là tự ý ngu muội của các ngươi bịa đặt ra? Các ngươi muốn làm chuyện ác rồi trở lại bảo rằng làm ác không tai họa, làm lành không được phước. Đó có phải là lời nói bịp người để che tội lỗi mình không. Còn các ngươi tự cho mình là hiểu thiên văn. Kìa hiện tượng của vũ trụ rõ ràng kia; nhựt nguyệt và tinh tú đó, các ngươi bảo ai tạo ra đó vậy ?

Bốn quan cận thần nghe nói, làm thinh không còn biết trả lời sao nữa.

Hiền Nhân tiếp:

- Tất cả hiện tượng trong vũ trụ đều do nghiệp lực tội phước. Làm lành làm ác đều do quả báo như bóng theo hình, người chết bỏ xác thân nhưng không bỏ được nghiệp hành. Gieo giống, tuy hạt lúa thúi mục dưới đất, nhưng sau nầy sẽ sanh ra cây đâm ra nhánh lá và kết hột trên ngọn. Thắp đèn, tim dần dần lụng, nhưng lửa vẫn còn đỏ mãi, hạnh nghiệp tội phước vẫn còn luôn luôn như người thắp đèn viết thơ, rồi đèn tắc, nhưng chữ vẫn còn. Hồn thần tùy hạnh nghiệp chuyển sinh đời khác, không hề gián đoạn. Các ngươi làm ác mà tự cho là cao cả, cũng như người giết cha mẹ mà lại có thể cho là vô tội sao?

Bốn quan đáp:

- Một nhánh cây còn không nên trái lá của nó thay, huống chi là giết cha mẹ mà cho là vô tội.

Hiền Nhân tiếp:

- Và bọn ngươi nạn ta, nhưng chính thực là ta lột lấy da con khỉ chết - vì khỉ chết, chớ ta nào có giết nó mà lột da? Còn bọn ngươi vu oan cho người, tội ác đó sẽ tính thế nào? Huống chi lại còn chủ trương tà quấy; bề ngoài giả làm lành, mà bên trong lại ẩn khuất làm việc gian ác. Cũng như vàng giả: ngoài thì nước vàng mà trong thì toàn đồng. Bề ngoài diện mạo tốt đẹp mà trong tâm toàn là sàm tặc. Thiệt chẳng khác gì chó sói lạc vào bầy dê, ngấm ngầm ăn hết bầy dê mà người giữ dê không hề hay biết.

Kẻ ác trong đời lắm khi cũng tự xưng đạo đức, giả khổ hạnh, cùng diễn giải kinh giới, nhưng bên trong chuyên hành tà siểm dối trá để cầu mong danh lợi. Người ngu không biết lại quay về tin phục. Rồi như nước sông gặp lụt, chảy tràn đầy dẫy, chưa kịp rút về biển cả, làm hại biết bao nhiêu người. Chỉ có bực thánh nhân mới có thể cứu giúp thiên hạ, cải bỏ ác tục, sửa sang việc lành, ai ai cũng đều nhờ cậy.

Nếu cho làm lành không phước, làm ác vô hại, thì các bực cổ thánh để lại bao nhiêu kinh điển làm chi và truyền trao gươm báu cho Vua làm chi? Hành nghiệp đều có quả báo rõ ràng. Làm dữ bị tai họamọi người đều ghét, không lâu thì mau tai họa ấy sẽ đến. Làm việc ân đức tuy ẩn kín, nhưng sau nầy sẽ bày ra và phước quả sẽ đem lại cho mình.

Vậy nên trong nước có Vua, Vua phải thuận theo phép Đạo, ủy nhiệm vụ cho người hiền, phó thác việc làm cho kẻ tài trí, ban thưởng người lành, trừng phạt người gian ác.

Bánh xe lăn tròn không ngừng, hành nghiệp cứ tùy theo đấy thọ sinh về nơi lành nơi dữ. Phải tin chắc có tội phước, đừng làm điều gian dối .

Phải hết sức cẩn thận lánh xa những kẻ gian ác và phải biết ăn năn tội lỗi Nếu mọi người đều lành thì bẩm tánh và quả báo sẽ lành đẹp giống nhau, song vì người làm ác rất nhiều nên nhân quả bất đồng: kẻ sống lâu, người chết yểu, kẻ nhiều bịnh, người ít bịnh; kẻ xấu xa, người tốt đẹp; kẻ nghèo hèn, người giàu sang. Kìa những người ngu, đui, điếc, câm, ngọng, kẻ mù què, tàn tật trăm điều đều do đời trước gây ác nhân mà nay gặt lấy ác quả. Còn đức độ, trung chánh, hiền từ nên là trí tuệ, đế vương, hào phú và muôn sự hạnh phúc. Như thế là nhân quả rõ ràng, sao lại bảo rằng không. Xin hãy suy nghĩ kỹ càng đừng lạc lầm vào tà đạo.

Hiền Nhân giảng xong, Vua cùng quần thần và tất cả nhân dân không một ai là không hiểu rõ và vui mừng.

Hiền Nhân lại nói tiếp:

- Và nay Hiền Nhân nầy lại xin nói một sự tích: Thuở xưa có một ông Vua tên là Cẩu Lạp có một cái ao trong ấy nuôi nhiều thứ "Cá ngọt." Vì cá ngọt ít xương mà ngon lắm nên nhà Vua cử một quan giám ngư - quan xem cá - để giữ gìn ao cá. Mỗi ngày dâng Vua tám con, nhưng quan giám ngư mỗi ngày cùng ăn chùng ăn lén mất tám con. Vua biết cá mất, nên cử tám quan giám ngư để cùng nhau giữ gìn ao cá. Song tám vị giám ngư trùng đảng với nhau mỗi ngày mỗi người đều ăn lén hết tám con -- té ra người giữ cá nhiều chừng nào thì cá lại mất nhiều chừng ấy.

Nay Bệ hạ đây cũng vậy. Giao nhiệm vụ cho nhiều người thì nước nhà càng thêm rối loạn. Cũng như kẻ hái trái non, ăn đã không có mùi vị gì mà lại làm mất giống, trị nước mà không dùng kẻ hiền, đã thiệt hại cho dân mà sau nầy tiếng tăm cũng mất và phước phần đều không. Trị nước bất chính làm cho thiên hạ có tâm tranh đoạt, cũng như muốn sửa sang và hưng nghiệp gia sản, mà không chịu để tâm dụng trí thì của cải mỗi ngày mỗi hao hớt đi.

Nước có tướng giỏi binh nhiều mà không chịu tập việc chiến trận, không lo lắng kiến thiết nước nhà, thì nước ấy sẽ bị hèn yếu. Làm Vua không kính đạo đức, không tôn thờ bực cao minh, thì hiện tại không người giúp đỡ và tương lai không được gặp phước lành. Hằng ngày giết hại, muôn họ kêu ca, thì tai họa thường xảy ra tới tấp, chết đi để tiếng xấu muôn đời.

Theo chính pháp trị dân thì được lòng người, kính thờ bực tôn trưởng, yêu mến trẻ thơ, hiếu thuận cha mẹ, vâng làm việc lành thì hiện tại an ổn và lại sinh thọ phước.

Làm việc trung chánh cũng như đi thẳng đường, lấy việc trung chánh làm cội gốc thì mọi người đều khâm phục. Như thế, sẽ gây được hạnh phúc thái bình. Lại phải sáng suốt, lượm lặt những lời xưa để làm kinh nghiệm cho đời nay, động tịnh phải biết thời, ân oai cho có lý, ban bố ân huệ cho nhân dânbố thí nền bình đẳng. Được như thế thì đời nay sẽ an ổn vui vẻ, sau nầy sẽ quyết tu chứng đạo giác ngộ.

Chúng hội nghe ngài Hiền Nhân dạy, đều vui mừng vỗ tay khen ngợi không ngớt.

Nhà Vua liền đứng dậy cúi đầu thưa rằng:

- Nay Trẫm được nghe lời Ngài dạy, cũng như cơn gió mạnh thổi tan mây mù. Vậy xin Ngài mở lòng từ bi, nghĩ đến quốc giadạy bảo quốc dân và giúp đỡ Trẫm trị dân như trước.

Hiền Nhân liền đứng dậy, theo Vua về cung, cùng luận bàn chánh sự.

Bốn quan cận thần, rồi sau bị đuổi. Hiền Nhân giúp nước, ân huệ thấm nhuần, gió mưa hiệp thời, mùa màng trúng tuyển, nhân dân đều vui vẻ, bốn biển một nhà, trên dưới hòa thuận đều chung sức gây lại một cuộc thái bình thạnh trị ...

(Nguồn: https://thuvienhoasen.org/a1018/kinh-hien-nhan)