Nhiều người thân, bạn bè hay thắc mắc, vì sao đặt tên con gái là "Nhất Tâm". Có lẽ câu trả lời là do nhiều nhân duyên.
Trước hết, là do quan niệm sống của mình ảnh hưởng từ triết lý của nhà Phật. Ở đó, nhấn mạnh 2 điều căn bản nhất trong cuộc sống là Tâm và Trí. Cốt lõi của đời người là mở mang Trí tuệ để thấu suốt thế giới vạn hữu, và mở rộng Tâm để có thể yêu thương vạn loài chúng sanh. Vì vậy, đặt con trai là Trí rồi, bây giờ đặt con gái là Tâm cũng là điều hợp lẽ. Một nguyên nhân nữa, đó là khi chọn tên con gái, vợ chồng mình có đọc 1 bài viết trên Văn hóa Phật giáo bàn về chứ Nhất Tâm và tự nhiên có cảm hứng từ 1 câu rất nổi tiếng trong kinh Phật, đó là "Nhất thiết duy tâm tạo". Câu nói trên là chỉ cho đầu mối hạnh phúc, khổ đau ở cuộc đời là do tâm con người ta, vì vậy, căn bản của việc tu học là làm chủ được tâm của mình. Dĩ nhiên, còn 1 vài yếu tố nhỏ khác nữa góp phần hình thành nên cái tên Nhất Tâm cũng ngồ ngộ, và gây thắc mắc cho nhiều người.
Hy vọng, mỗi lần gọi tên các con, bố mẹ sẽ luôn nhắc nhở mình về những điều căn bản mà Phật đã dạy để áp dụng trong cuộc sống. Và đó cũng là tâm nguyện của bố mẹ, mong các con luôn có Trí sáng và Tâm trong để có thể vững bước và hạnh phúc trong cuộc sống.
Nhân tiện, post lại đây 1 bài bàn về chữ Tâm để nhớ và hiểu hơn về ý nghĩa sâu xa của nó.
======
Tâm tạo ra tất cả
Kinh điển Phật giáo thường đề cập rất nhiều đến
sự hiện hữu của tâm và lực tác động của tâm đến đời sống con người. Có
thể nói, ngoài hệ tâm học, còn có hệ Duy Thức học. Duy Thức học cũng
phân tích, chia chẻ rất chi tiết cái tâm của con người, giải thích vai
trò của tâm tồn tại, ảnh hưởng thế nào trong sinh hoạt hàng ngày của con
người trong hiện đời cũng như trong đời sống kế tiếp. Việc phân tích tỉ
mỉ như vậy để điều chỉnh tâm trên bước đường tu còn có muôn ngàn sai
khác nữa.
Có thể khẳng định rằng tâm học trong Phật giáo được quan sát, ghi
nhận quá sâu rộng. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề
cập đến một trong những khía cạnh chính yếu của tâm theo tinh thần Phật
giáo Đại thừa. Trong rất nhiều bài pháp của Đức Phật, Ngài luôn giảng
dạy về tâm; vì theo trí giác của Phật, tâm là người chủ sanh ra vạn vật.
Vì thế, trong hầu hết kinh điển Đại thừa đều đưa ra những phân tích, lý
giải về tâm một cách sâu sắc, nhằm giúp cho hàng đệ tử Phật thấy biết
đúng đắn vai trò chủ yếu của tâm đã hoạt động như thế nào để tạo thành
đời sống của con người thăng hoa tốt lành, thánh thiện, hay xấu ác, sa
đọa và nó không những ảnh hưởng trong một đời hiện tại, mà cả một chuỗi
dài đời sống trong dòng sinh mạng tương tục của kiếp trầm luân.
Trong các kinh điển Đại thừa, nhắc đến bộ kinh Hoa Nghiêm là chúng
ta nhớ ngay đến lời dạy nổi bật của Đức Phật "Nhất thiết duy tâm tạo”.
Nghĩa là muôn sự, muôn vật, muôn loài đều do tâm mà hình thành, hiện
hữu. Từ căn bản của tâm chủ động ấy, người tu theo Hoa Nghiêm nỗ lực vận
dụng pháp tu để điều chỉnh tâm, chuyển đổi tâm sinh hoạt theo hướng tốt
lành của Phật pháp.
Trên bước đường tu, hành giả Hoa Nghiêm làm công việc điều chỉnh tâm
cho tốt đẹp đối trước phản ứng của người, hay hoàn cảnh thực tiễn trong
cuộc sống hàng ngày. Thật vậy, thực tế cuộc sống cho thấy rõ nếu không
để cho vật hay người tác động, thì tâm không sanh ra. Ý thức sâu sắc
điều cốt lõi này, chúng ta thấy không khởi thì mọi hiện tượng không có
đối với người tu. Vì thế, người tu Thiền thường nhiếp tâm lại, đóng kín
sáu giác quan. Nhờ vậy, con người và sự vật không có đối với họ, nên tâm
hồn họ hoàn toàn phẳng lặng, yên ổn. Trạng thái tu chứng này của Thiền
sư, đạo Phật gọi là Niết bàn, thể hiện sự an lành nhất. Đó là lý tưởng
trong đạo Phật về sự tu chứng của tâm.
Tâm không sanh thì pháp diệt, nhưng tâm con người lại luôn sanh khởi.
Nếu tâm không sanh, mà lại rơi vào tình trạng vô giác, vô tri, thì ngồi
yên suốt một kiếp cũng không được gì; vì đã biến đổi con người có tri
giác của mình trở thành vô giác vô tri. Người tu phạm sai lầm này trong
nhà Thiền gọi là than nguội, củi mục, không lợi ích gì cho cuộc đời.
Tiếp xúc thì tâm sanh khởi. Không tiếp xúc thì thành vô giác vô tri.
Hai thái cực sống này đều không đúng. Vì cuộc đời tu hành của Đức Phật
đã cho chúng ta nhận thấy rõ rằng Ngài không ngồi dưới cây Bồ đề để
thành vô giác vô tri và trên bước đường giáo hóa độ sanh, Đức Phật cũng
không lăn xả vào đời để bị phiền muộn, khổ đau.
Có thể thấy pháp tu mà kinh Hoa Nghiêm đưa ra nêu rõ vấn đề trí tuệ là
chính yếu. Phật là hiện thân của trí tuệ. Từ nền tảng trí tuệ, trong
kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy chúng ta nâng cao Trí thân của chính mình;
nghĩa là phát huy trí tuệ sáng thì sử dụng trí tuệ này chiếu vào muôn
vật, chuyển đổi vật thành sở hữu của trí tuệ mình. Trong khi người không
trí tuệ làm nô lệ cho mọi việc, mọi người, mọi hoàn cảnh trong cuộc
sống.
Đức Phật khẳng định rằng mọi vật, mọi người, nói chung là thiên nhiên
và xã hội không đáng sợ, không đáng ghét như chúng ta nghĩ tưởng. Từ bỏ
thiên nhiên và xã hội là thái độ sai lầm lớn nhất. Chúng ta nhận thấy
trong nhiều bài thơ ngộ đạo của các Thiền sư phần nhiều diễn tả cái đẹp,
sự tinh khiết của thiên nhiên và con người.
Tâm trong sáng, tốt đẹp được kinh Hoa Nghiêm thể hiện rõ nét qua hình
ảnh Thiện Tài đồng tử bước chân vào đời, nhận thấy tất cả mọi người, ai
cũng tốt đẹp. Nói cách khác, nếu biết vận dụng pháp, hay xử sự tốt đẹp
thì mọi việc đều tốt đẹp; không xử sự tốt, chắc chắn phải lãnh hậu quả
xấu. Phật dạy do tâm tạo, do mình nghĩ, mình xử sự mà việc tốt hay xấu
là vậy.
Để ngọn đèn chánh pháp của Phật soi sáng mãi cho nhân loại, tinh thần
Phật giáo Đại thừa quan niệm giáp mặt với cuộc đời, hòa mình vào cuộc
sống của thế nhân, sống sao cho tốt đẹp, có lợi ích cho muôn người; như
mẫu người lý tưởng là Thiện Tài vào đời hành đạo một cách tự tại, vô
ngã, vị tha, không phân biệt giai cấp, tuổi tác, giới tính. Đối với Đức
Phật, với Thiện Tài, hay với hành giả ngộ đạo, không có gì là không đẹp
trên thế gian diễn tiến không ngừng này, không có gì không phải là Phật.
Lời dạy chuyên chở giá trị vĩnh hằng này của kinh Hoa Nghiêm là hành
trang vô cùng quý báu đối với tất cả hàng đệ tử Phật "Mỗi bước chân đi,
hoa sen nở”.
(Nguồn: sưu tầm từ ChuaHueNghiem.net)