Vua A Xà Thế sau
khi quy y theo Phật đã rất nhiệt tâm trong việc tu học, thường suy tư, tìm hiểu
và ứng dụng lời Phật dạy vào việc trị quốc, an dân. Vì vậy, đất nước an bình,
thịnh trị.Tuy nhiên, việc vua
A Xà Thế theo Phật, thay đổi quan điểm trong việc trị quốc theo hướng nhân từ, không sát hại đã gặp phải sự bài bác,
chống đối của các vị Bà La Môn.
Nhân sự việc 2 binh
sĩ bỏ nhiệm vụ để trở thành tỳ kheo trong tăng đoàn của Phật, các vị Bà La Môn
chất vấn vua A Xà Thế rằng, nếu ai cũng muốn thực hiện theo lời Phật dạy là
không sát hại thì lấy ai chiến đấu bảo vệ đất nước và giữ gìn trị an?
Vua A Xà Thế bối
rối trước tình huống này, nên đến xin ý kiến Phật để tìm cách hóa giải mâu thuẫn với các vị Bà La Môn, và cũng để giải quyết những khúc mắc trong lòng mình.Sau khi nghe những
khúc mắc của vua A Xà Thế về mâu thuẫn giữa nguyên lý bất hại với nhu cầu chiến
đấu, trừng phạt để bảo vệ sự an nguy của đất nước, Đức Phật bèn kể một câu chuyện như sau.
Ngày xưa, ở một
vương quốc nọ, có một con rắn chúa sinh sống trong ngôi đền cổ. Con rắn này
thường bò vào làng và cắn chết nhiều người, nên nó đã trở thành nổi kinh hoàng
của mọi người. Không ai dám đến gần ngôi
đền và khu vực xung quanh.
Một hôm nọ, có vị
đạo sĩ từ phương xa đến và dừng chân trú đêm lại trong
ngôi đền đó. Con rắn chúa đã bò đến gần vị đạo sĩ, và định cắn như mọi khi. Tuy
nhiên, vị đạo sĩ là người đã có giác ngộ, nên
ngài đã dùng tâm từ để cảm hoá con rắn chúa. Ngài đã giảng giải cho nó nghe về nghiệp báo, khiến nó nhận ra
lỗi lầm do lòng tham sân si. Nó đã xin quy y với ngài, hứa giữ gìn ngũ giới và
nguyện sẽ từ bỏ con đường sát
hại.
Từ đó, con rắn trở
nên hiền lành, không còn cắn ai nữa. Tuy thế, dần dần mọi người trong làng
không còn sợ hãi con rắn, và còn xem
thường nó nữa. Chẳng những vậy, nó lại bị lũ trẻ con trong làng chọc phá, dùng gậy
gộc đánh một cách rất thảm thương. Con rắn phải trốn vào hang đá vào ban ngày,
và ban đêm mới đi ra kiếm ăn. Nó chỉ ăn những thứ cỏ cây, sỏi đá mà không dám
giết hại bất kỳ loài vật nào như đã hứa với vị đạo sĩ.
Một ngày kia, vị
đạo sĩ trở lại ngôi làng đó, thấy tình cảnh thảm thương của con rắn, ngài nói
với nó: "Ta chỉ bảo ngươi không cắn người, chứ đâu bảo ngươi phải từ bỏ
bản chất của mình. Ngươi vẫn có thể khò khè làm họ sợ để tự vệ chứ".
Kể đến đây, Đức
Phật dạy vua A Xà Thế về trách nhiệm của người cầm quyền, nên dùng tâm nhân từ,
công bằng đối xử với mọi người. Khi cần thiết vẫn có
thể trừng phạt người phạm lỗi, và vẫn có thể duy trì quân đội để bảo vệ đất
nước.
Ngài dạy thêm, điều quan trọng của việc tu tập là đi trên con đường
trung đạo, không quá phóng túng, nhưng cũng không
quá khắc khổ, cần linh động để ứng xử cho phù hợp với hoàn cảnh, tránh việc cố
chấp, quá cứng nhắc trong ứng xử.
Ngoài ra, Đức Phật
cũng chỉ cho vua A Xà Thế về bảy
nguyên tắc để duy trì hòa bình, giải quyết mâu
thuẫn, tranh chấp phát sinh, đó là:
1/ hai bên cần ngồi
đối diện với nhau, cùng nổ lực giải quyết vấn đề.
2/ mỗi bên trình
bày vấn đề một cách rõ ràng, bình tĩnh tìm hiểu và ghi nhớ nguyên nhân của vấn
đề.
3/ cần dùng trí tuệ
khách quan/ công bằng xem xét từng vấn đề, sáng tạo trong việc tìm giải pháp.
4/ nếu nhận thấy
điểm sai của mình thì chủ động xin lỗi, không cố chấp cãi bướng. Sẵn lòng tha
thứ cho người và cho mình về những khuyết điểm.
5/ mọi quyết sách
cần được sự tán đồng của người dân, nếu sau khi đọc lớn 3 lần quyết định trước
công chúng mà không ai phản đối, thì mới được ban hành quyết định đó.
6/ trong quá trình
giải quyết mâu thuẫn, các bên cần phải tuân theo quy tắc chung đã đặt ra.
7/ cần mời một
người lớn tuổi, có uy tín đứng ra làm trọng tài/ trung gian hoà giải giữa 2
bên.
Phật nói tiếp, nếu đại vương thực hành theo bảy nguyên tắc trên, mọi tranh chấp sẽ có thể được hóa giải, mở ra con
đường của hoà bình, an lạc và cùng chung sống giữa mọi người.Nghe xong, vua A Xà
Thế vui mừng, tán thán Đức Phật, xin tuân theo lời chỉ dạy và trở về cung.
Bài học: Khi áp dụng lời Phật dạy vào cuộc
sống, cần linh động, nên theo tinh thần trung đạo. Nguyên lý bất hại chỉ mang
tính tương đối, nên cố gắng tránh sát hại đến mức tối đa. Trong một số tình
huống bất khả kháng, việc trừng phạt, hay tiêu diệt kẻ ác để bảo vệ an bình của
người thiện một cách công tâm cũng không vi phạm nguyên lý này.
(Nguồn: Những mẩu chuyện Phật giáo dành cho thiếu nhi - tập 3)
Tám mươi mùa xuân đã
qua từ ngày Phật xuất thế dưới cây Vô ưu. Bấy giờ Ngài vào hạ ở rừng Sa-la
trong xứ Câu-ly cách thành Ba-la-nại chừng 120 dặm. Một hôm, Ngài bảo ông
A-nan:
– A-nan ơi! Ðạo ta nay đã toàn
vẹn. Như xưa ta đã nguyện, nay ta đã đủ bốn chúng trong tăng đoàn, là: tăng,
ni, phật tử nam, phật tử nữ và nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe Pháp. Còn
trong dân gian, Ðạo ta truyền khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các người mà ra
đi. Vả lại, nay ta cũng đã 80 tuổi rồi. Thân hình ta bây giờ như một cỗ xe đã
mòn rã, nếu còn đi được là nhờ những sợi dây ràng rịt các bộ phận với nhau. Ta
sẽ mở dây cho chúng tan rã. Thân này ta đã mượn làm xe để chở Pháp, nay xe cũng
vừa mòn mà Pháp cũng đã lan khắp, ta còn nấn ná làm gì trong cái thân tiều tụy
này nữa? A-nan, trong ba tháng nữa, ta sẽ nhập Nỉết-bàn.
Nghe Phật dạy, ông
A-nan gieo năm vóc xuống đất, bạch:
– Thưa Thế Tôn, Ngài
thường dạy rằng ai đã giác ngộ thì không thể mất đi được. Nay Thế Tôn là một bậc
toàn trí, toàn năng, sao lại còn phải chịu cái luật tầm thường như thế?
Phật nghiêm nét mặt
lại hỏi:
– A-nan! Người
bảo cái gì mất mà cái gì còn ? Sao người không nhận được cái gì chơn mà cái gì
giả, cái gì tồn tại mà cái gì tiêu hủy? Ta đã nhiều lần dạy rằng, đã có đến thì
có đi, có hợp thì có tan, có sanh thì có diệt. A-nan, thân ta không khác thân
mọi người; mà thân mọi người làm sao thoát ra ngoài luật vô thường được? Thân
ta là giả hợp, nó phải tan rã. Nhưng A-nan! Làm sao ngươi thấy
một làn sóng tan, ngươi lại bảo nước không còn nữa?
Ông A-nan cũng biết
như thế lắm. Nhưng ý nghĩ trong ba tháng nữa, Phật sẽ không còn tại thế để chỉ
dạy cho chúng sanh, làm ông bồn chồn tâm trí. Ông đánh bạo nài xin Phật ở lại
một lần nữa:
– Bạch Thế Tôn, xin
Ngài hãy ở nán lại vì rất nhiều đệ tử còn phải nhờ đến sự chỉ giáo của Thế Tôn
để chứng đạo.
– A-nan ơi! Chính vì
muốn để cho họ mau chứng đạo mà ta nên đi. Nếu chim mẹ cứ mớm mồi mãi cho con,
thì đến bao giờ chim con mới bay được? Gần nửa thế kỷ, họ quanh quẩn bên chân
ta, bây giờ phải đến lúc họ rời ta để tự bước tới, như đứa trẻ mới tập đi, phải
có một lúc rời tay mẹ.
Tin Phật sắp vào
Niết-bàn lan dần như một hơi gió thoát từ hang lạnh. Các đệ tử như đàn cừu tản
mác trên cánh đồng Ấn Ðộ, lục tục kéo nhau về để cùng đấng Dẫn Ðường chia ly
lần cuối.
Trong mấy tháng ấy
tuy thân hình Ngài đã gầy còm, mệt mỏi, Phật vẫn đi truyền giáo như thường.
Nhưng Ngài không đi xa, chỉ quanh quẩn trong địa hạt xứ Câu-ly. Ông A-nan
thường xin Ngài hãy tịnh dưỡng trong những ngày cuối cùng của Ngài. Nhưng Ngài
khoát tay từ chối, mà dạy:
– Thân ta tuy có kém
khoẻ, nhưng lòng Từ bi của ta, Trí sáng suốt của ta có kém sút đâu? Ta còn tại
thế ngày nào thì ngày ấy phải là ngày không vô ích.
Một hôm, Phật đi
thuyết pháp ngang một khu rừng, có một người tên là Thuần-đà, làm nghề đốt than
đến quỳ trước Phật:
– Kính lạy Ngài, ở
đây làng mạc không có, mà trời sắp đứng trưa, xin Ngài hãy về nhà con ở gần đây
thọ trai rồi hãy đi. Con nghe Ngài qua đây nên đã đi hái một thứ nấm rất quý để
dâng Ngài, xin Ngài đừng từ chối mà tủi nhục lòng con.
Phật im lặng cùng các
đệ tử đi theo ông Thuần-đà. Ðến nhà, những thức ngon vị lạ đã dọn la liệt trên
bàn dài, ông Thuần-đà lại bưng lên để trước mặt Phật một bát nấm, hơi lên nghi
ngút.
Phật thọ trai xong,
phán với các đệ tử:
– Bát nấm này có độc,
các ngươi hãy đem đổ đi không nên ăn.
Ông Thuần-đà kinh
hãi, vật mình lăn khóc bên chân Phật. Phật dạy: “Ngươi không nên than khóc,
cũng đừng hối hận. Phải vui sướng lên, vì ngươi đã được cúng dường bữa cơm cuối
cùng cho ta. Có hai bữa ăn đáng kỷ niệm nhất, lần đầu là của nàng Tu-xà-đa cúng
dường ta trước khi ta thành Ðạo và bữa cơm này, trước khi ta vào Niết bàn”.
Phật từ giã ông
Thuần-đà, cùng các đệ tử ra đi được một đỗi đường, Ngài nghe trong mình khó ở,
Phật đưa bình bát và chiếc võng cho A-nan:
– A-nan ! hãy mang
bình bát dùm ta và tìm hai cây Sa-la ở trên đồi kia, treo võng lên cho ta nằm
nghỉ.
Phật đến bên cây
Sa-la, nằm xuống võng. Ðầu Ngài trở về hướng Bắc, mình nghiêng về tay phải, hai
chân tréo vào nhau. Trước mặt đấng Ngài chói lọi một mặt trời tròn xoe và đỏ
rực. Hoa trắng lác đác rơi dọc theo mình Ngài trên thảm cỏ xanh. Hương ở đâu
bay lại, thơm ngát cả khu rừng.
Nhưng đấng Từ bi chưa
đi vội. Ngài sai một Tỷ kheo đi báo tin Ngài sắp nhập diệt cho các đệ tử và dân
chúng ở rải rác trong thành hay.
Trong số các người
đến kính viếng, có một ông già thuộc phái Bà-la-môn, tên Tu-bạt-đà-la đến xin
ông A-nan cho được đến gần Ngài hỏi đạo. Ông A-nan không cho, bảo rằng Ngài
đang mệt. Nhưng Tu-bạt-đà-la cứ nài nỉ xin vào. Lời qua tiếng lại, Phật nghe
được, liền bảo ông A-nan cứ để cho vào. Tu-bạt-đà-la đến sụp lạy bên chân Phật,
thưa :
– Lạy đấng Sáng suốt,
con thường nghe đạo Ngài rất thâm diệu, nhưng con cũng thường nghe bọn ngoại
đạo bảo chỉ có đạo của họ là hợp chân lý. Như thế thì con biết tin theo ai?
Phật dịu dàng dạy:
– Ngươi đừng tin theo ai
cả. Ngươi chỉ nên theo lý trí của ngươi mà phán đoán. Ngươi hãy đem thuyết của
ta so sánh với những thuyết của ngoại đạo, xem pháp nào thực sự mang lại an
vui, hạnh phúc, rồi ngươi sẽ biết nên tin bên nào mà bỏ bên nào.
Ông Tu-bạt-đà-la sụp
xuống ôm chân Phật, khóc kể:
– Ôi rộng rãi thay
lời nói của đấng Từ bi! Con chưa từng nghe một đấng truyền giáo nào dạy như
Ngài! Nhưng ôi! Con đến quá chậm, Ngài sắp nhập diệt rồi, con biết nhờ ai để tu
tập?
Phật để tay lên đầu
ông, dạy:
– Người hãy yên tâm.
Ta sẽ độ cho người. Còn sự tu tập sẽ có các đệ tử ta chỉ giáo cho.
Ông Tu-bạt-đà-la là
người cuối cùng được đấng Từ bi nhận làm đệ tử khi Ngài còn tại thế.
Các đệ tử những bậc
vua chúa và dân gian đến mỗi lúc mỗi đông. Họ kính cẩn cúi đầu đứng quanh Ngài.
Nhưng bỗng giữa bầu không khí im lặng, nấc lên vài tiếng khóc. Phật dạy:
– Ðừng ai thương tiếc
ta như thế! Hãy bình tĩnh trong buổi chia ly này! Các người ơi! Các người còn
nhớ những lời ta dạy chăng ? Ta thường bảo thân thể bao giờ cũng tan rã, những
vật người đời yêu thương, gìn giữ tất rồi có ngày phải chia cách. Làm sao trên
thế giới chuyển di, lại có vật không thay đổi? Ai tìm thấy lại được hình dáng
đã vẽ trên mặt nước?
– Hỡi các tỷ kheo! Ở
đây các người là hạng được nghe rất nhiều giáo pháp của ta, các người phải
chứng tỏ sự hiểu biết của các người bằng những cử chỉ, nhất là giữa lúc này.
Bao lâu nay các người rất gần gũi với ta, trong hành động cũng như trong ý
tưởng, vậy bây giờ không nên vì tình cảm ủy mị, hẹp hòi của các người trong một
lúc mà trở thành xa lạ với ta. Ðừng ai thương tiếc ta như thế!
Ngài gọi ông A-nan
lại gần Ngài, để tay lên đầu ông, vỗ về:
– A-nan ơi! Trong các
đệ tử, ông là người luôn luôn ở bên cạnh ta, và giúp đỡ ta nhiều nhất, ông là
đệ tử rất xứng đáng với ta. Trong việc truyền giáo, công đức của ông không phải
nhỏ. Vậy trước khi nhập diệt, ta có lời cảm ơn ông. Từ đây trên đường đi truyền
giáo, bước chân ta không còn vang dội bên bước chân ông nữa, nhưng đừng vì thế
mà buồn; chúng ta dù có xa nhau cũng chỉ ở hình dáng chứ còn tâm ta vẫn hoà nhịp
với tâm ông trong cái đạo rộng lớn. Ông hãy tu tập để nhận rõ chân tâm, rồi sẽ
gặp ta ở mọi chỗ. Thôi ông hãy đứng dậy!
Sau đó, Phật nhìn ra,
hỏi đại chúng:
– Ở đây có ai không
hiểu hay còn nghi ngờ điều gì về giáo lý của ta thì cứ hỏi, ta sẽ trả lời. Ðừng
để khi ta nhập diệt rồi lại ân hận là không còn ai để giảng giải.
Mọi ngườỉ đều im lặng
nhìn nhau. Phật lại bảo:
– Nếu các người vì sợ
làm mệt ta, hay vì nể ta mà không dám hỏi thẳng thì hãy bàn bạc cùng nhau, khi
nào không thể giải quyết được, ta sẽ giúp cho.
Nhưng đại chúng vẫn
im lặng. Ông A-nan bạch:
– Kính bạch Như Lai!
Ðạo Ngài sáng tỏ như mặt trời. Những lời Ngài dạy cặn kẽ từng gang tấc! Những
điều đáng nói, Ngài đã dạy cho hết cả rồi chúng con không còn điều gì nghi ngại
nữa. Duy, chúng con xin Ngài dạy cho biết sau khi Ngài nhập diệt rồi, chúng con
phải làm những lễ nghi gì để cho xứng với thi hài của một đức Phật?
Phật dạy: “Các người
đừng bận tâm đến việe ấy. Các người hãy chuyên tâm đến sự giải thoát của các
người. Đấy chính là một cách sùng bái ta.
– Hỡi những ai vì
hoàn cảnh mà không thể xuất gia, các người hãy luôn luôn nhớ đến đạo ta! Phải
tinh tấn mãi mãi để thoát ra khỏi lưới dục vọng mà chứng Ðạo!
– Này, các người phải
tự thắp đuốc lên mà đi! Các người hãy lấy Pháp của ta làm đuốc! Các người hãy
theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Ðừng tìm sự giải thoát ở một kẻ nào khác!
Ðừng tìm sự giải thoát ở một nơi nào khác!
– Các người làm như
thế là biết ơn ta, là nhớ tưởng đến ta. Và hỡi các Tỷ kheo! Các người có thêm
một bổn phận là truyền đạo ta, thay ta để đưa đường chỉ lối cho mọi người. Các
người phải tìm hiểu đến cùng tột những nghĩa lý sâu xa, mầu nhiệm của giáo pháp
ta để làm lợi lạc cho chúng sanh! Các người phải luôn luôn vượt lên những trở
lực để mãi mãi truyền thừa Ðạo ta cho đến vô cùng tận.
– Nếu các người để
cho đạo Giải thoát của ta suy tàn, ấy là các người mất ta, và các người sẽ làm
mất các người!
– Nếu các người vẫn
trung thành với những lời dạy của ta, ấy là các người nhớ ơn ta, ấy là các
người tôn sùng ta. Nếu các người làm cho đạo Từ bi của ta mỗi ngày một thịnh
mãn, ấy là các người gần ta, và ta sẽ luôn ở bên cạnh các người.
– Này các Tỷ kheo!
Các người đừng nghe dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có gì quý
báu. Chỉ có chân lý của Ðạo ta là bất di bất dịch.
– Hãy tinh tấn lên để
giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!”
Bài học: Hãy ghi nhớ những lời dạy cuối cùng của Đức Phật để duy trì sự tinh tấn
trong việc tu tập. Ngài dạy – “hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”. Cả đời ngài
luôn vì mục đích mang lại hạnh phúc và giác ngộ cho chúng sinh. Hãy nhớ đến hạnh
nguyện của Ngài, mà tinh tấn tu tập, mở rộng trí tuệ và lòng yêu thương, đó
chính là cách đền đáp ơn đức cao dầy của Đức Phật.
(Nguồn: Mẩu chuyện Phật giáo dành cho Thiếu nhi - tập 2)
Sau khi xuất bản tập 1 « Những mẫu chuyện Phật
giáo dành cho thiếu nhi », tác giả đã nhận được
nhiều phản hồi, góp ý tích cực và khuyến khích tiếp
tục mở rộng các câu chuyện Phật giáo hướng tới
các đối tượng thiếu niên nhi đồng. Nhận thấy, tác
dụng tích cực của những mẫu chuyện này đối với
việc gieo mầm Phật pháp ở lứa tuổi mầm non, thiếu
nhi, tác giả có động lực hoàn thiện tập 2, với mong
muốn hệ thống hóa các câu chuyện xoay quanh
cuộc đời Đức Phật, các đệ tử lớn và các bài giảng
của ngài trong suốt cuộc đời hoằng hóa.
Trung thành với mục tiêu ban đầu là hướng tới đối
tượng độc giả là các em nhỏ ở tuổi thiếu niên, nhi
đồng, và hỗ trợ cho các bậc phụ huynh trong việc
giáo dục trẻ, nên các câu chuyện được chọn lọc
dựa trên tiêu chí ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, phù
hợp với tâm lý của trẻ nhỏ. Bên cạnh đó, cuốn sách
cũng hướng tới mục tiêu nâng cao hiểu biết về Phật
pháp bằng cách hệ thống hóa những câu chuyện về
cuộc đời đức Phật và những giáo lý căn bản trong
Phật pháp. Hy vọng, qua những câu chuyện này, trẻ
sẽ trở nên quen thuộc với các khái niệm như : Đản
sanh, Niết bàn, Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Khổ, Vô
thường, Vô ngã... là những giáo lý căn bản của đạo
Phật, để từ đó có thể tìm hiểu thêm và ứng dụng
vào cuộc sống hàng ngày ở trường và ở nhà.
Bên cạnh các câu chuyện gắn liền với Đức Phật,
một số truyện ngụ ngôn về loài vật, cổ tích Phật
giáo cũng được đưa vào nhằm giúp các em cảm
thấy vui thích qua các hình ảnh thân thương của các loài vật, giúp các em hiểu biết hơn về thế giới
tự nhiên, cũng như phát triển lòng yêu thiên nhiên,
và biết bảo vệ môi trường sống chung. Mong rằng
tập sách sẽ mang đến cho các em thiếu nhi và quý
vị phụ huynh những giờ phút thư giãn bổ ích và thú
vị, đồng thời gieo mầm đạo đức và nuôi dưỡng tâm
hồn hướng thượng, hướng thiện nơi các bé, qua
những câu chuyện Phật giáo được chọn lọc một
cách cẩn thận. Chúc các em nhỏ và các bậc phụ
huynh có những niềm vui khi đọc cuốn sách này, và
ứng dụng được những điều Phật dạy trong cuộc
sống để gia đình luôn an lạc và hạnh phúc !
Nhân đây, cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với các
tác giả, tác phẩm, hình vẽ đã được tham khảo trong
tuyển tập này, mà tác giả không có điều kiện liên
lạc và xin phép. Cũng gửi tặng món quà này đến bà
xã và các con, những người luôn bên cạnh động
viên, và khuyến khích tôi hoàn thành tập sách này.
Mong tiếp tục nhận được sự hưởng ứng từ các em
thiếu nhi và các bậc phụ huynh đối với Những mẫu
chuyện Phật giáo dành cho thiếu nhi tập 2 này. Rất
mong nhận được các góp ý để bổ khuyết cho lần tái
bản sau được hoàn thiện hơn. Mọi góp ý xin gửi về
địa chỉ e-mail: pqtrung@gmail.com
Tác giả kính bút, Đức Kiên (Phạm Quốc Trung) ---- PS. Sách hiện có tại P. Phát hành kinh sách Chùa Xá Lợi (89 Bà Huyện Thanh Quan, Q.3, TP.HCM)