Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Friday, July 27, 2012

12 Vấn đề xã hội dưới cái nhìn Phật giáo

12 Vấn đề xã hội dưới cái nhìn Phật giáo

Trong một cuộc đàm thoại giữa thính chúng thuộc nhiều thành phần xã hội, là nhà truyền thông, nhà giáo dục, chính khách, …Đức Lạt Lai Lạt Ma đã trả lời các câu hỏi về nhiều vấn đề đời sống xã hội tham của người tham dự một cách thẳng thắn và có duyên. Với phong thái gần gũi, chân thật và giản dị, và qua những câu trả lời này, phần nào đó trả lời câu hỏi: tại sao Đức Đạt Lai Lạt Ma được nhiều người, đặc biệt là ở các nước phương Tây yêu mến đến thế.

1.Kính thưa Ngài, khi còn bé Ngài đã tỏ ra phi thường. Những trẻ em lo âu cho tương lai của tinh cầu đã thành lập một hội đoàn. Ngài có đều gì muốn nói với trẻ em ngày nay?
Tương lai là cái gì ở trước mặt chúng ta, và vì vậy, nó rất quan trọng. Trẻ em có trách nhiệm về tương lai ấy. Vì rằng bản tính con người căn bản là tốt, nên trẻ em, khi còn rất nhỏ, không phân biệt lắm giữa người này và người nọ. Các em có một tình thương và lòng nhân tự nhiên. Ví dụ đối với các em, nụ cười của người đối diện quan trọng hơn chủng tộc, quốc tịch hay văn hóa của họ. Điều này, theo tôi rất đáng quý và nó khiến tôi hy vọng ở tương lai. Nhưng mặt khác thì tôi lại thấy hơi lo: trẻ em đương nhiên có tâm hồn cởi mở và tốt bụng, nhưng một vài khía cạnh của nền giáo dục mà các em hấp thụ làm tăng thêm mối chia rẽ giữa các em, điều này chung cục sẽ tạo nên hố ngăn cách giữa trẻ em và những người khác.
Vì vậy,tôi thấy là song song với giáo dục, điều tối cần là phải phát triển lòng nhân mà bẩm sinh các em vốn có. Nghĩa là giáo dục phải hòa hợp với bản chất nhân hậu của trẻ. Điều chính là nuôi dạy nó trong một môi trường thương yêu và trìu mến. Mặc dù, lý tưởng mà nói rằng, nếu phải lựa chọn nhiều đức tính rất quý khác và lòng nhân, chắc chắn tôi sẽ chọn lòng nhân.
Thật vậy, giáo dục cùng với trí thông minh bẩm sinh của con người, dù quan trọng cách mấy cũng không đủ để tạo dựng tương lai. Tâm hồn chúng ta phải thấm nhuần đức vị tha, bằng cách cảm nhạn giá trị nhân bản nòng cốt như tình thương đồng loại. Hãy tự tạo cho mình lòng nhân và tinh thần khoan dung; hãy cho trí thông minh của ta phong phú lên nhờ đức tính ấy, và khai thác những đức tính có được giáo dục, để cả chúng ta và xã hội quanh ta đều được mãn nguyện và hạnh phúc.

2. Tại sao ở phương Tây cha mẹ và con cái lại “thường bất hòa” nhu vậy?
Tôi cũng chẳng biết nữa. Có nhiều yếu tố và đều kiện như: thói quen, phong tục và tấm gương cho trẻ noi theo. Điều có thể tạo nên xung đột trong gia đình. Dĩ nhiên thật đáng buồn khi mà giữa cha mẹ và con cái, tình thương yêu không còn nữa. Tôi không thể giải thích những mối bất hòa như vậy bằng một nguyên nhân duy nhất nào. Vì có nhiều nguyên nhân, nên khi tìm cách giải quyết văn đề, phải nhận định chúng một cách bao quát, toàn diện.

3. Những quan điểm chính trị và kinh tế của các nước phương Tây đã vận hành tương đối tốt trong thập niên 1960, nhưng mọi sự không ổn trong thập niên này. Người ta không còn thấy bằng lòng nữa. Làm sao chỉnh đốn lại tình thế?
Từ lúc hãy còn rất bé, tôi đã ham thích kỹ thuật. Một số người cho rằng chính việc phát triển kỹ thuật đã không hoàn toàn đáng mong muốn. Tôi thì không nghĩ vậy. Tôi nghĩ rằng tất cả điều do ở thái độ chúng ta, và chúng ta có quyền sử dụng nó và điều tốt hay điều xấu. Vậy nên, tất cả đều tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy chúng ta, vào cách chúng ta áp dụng kỹ thuật. Tôi nghĩ hiện nay chúng ta đang chứng kiến một sự tăng gia kiến thức sâu rộng, nhưng người ta lại không quan tâm phát triển lòng tốt, thiện tâm và tình thương yêu đồng loại cho bằng quan tâm đến kiến thức.
Tuy vậy, tôi nghĩ rằng hiện nay mọi sự đã rất rõ ràng. Con người không phải là sản phẩm của máy óc. cho nên không mong gì có được hạnh phúc thật sự nếu chỉ tùy thuộc vào ngoại cảnh. Dĩ nhiên, chúng ta cần có một tối thiểu tài sản vật chất, nhưng nó không phải là nguyên nhân mang lại hạnh phúc. Những nguyên nhân thật sự để được hài lòng mãn nguyện phải tìm trong nội tâm ta. Tôi nghĩ đều ấy rất rõ.
Mặc dù khó giải thích tiêu này, tôi xin cố gắng diễn tả ý nghĩa của lời giải quyết ấy. Trước hết phải nhìn nhận hạnh phúc thể hiện trong tâm hồn chúng ta. Những kẻ chỉ suy nghĩ bằng khoa học kỹ thuật, với chủ trương là có thể giải quyết và hoàn tất mọi chuyện nhờ có tiến bộ, đều là cực đoan. Tôi phải nhìn nhận đâu là giới hạn của một lối nhìn như vậy. Khởi đầu bằng cách định đường ranh này khiến chúng ta khỏi phải ngỡ ngàng khi gặp những trở lực ngoại giới. Theo ý tôi, khi gặp khó khăn chúng ta đừng nên quá gần mà quan sát chúng. Ngược lại, hãy đứng xa ra một chút, nhìn với một tam hồn cởi mở hơn, trong một bối cảnh bao quát hơn; khi ấy chúng ta sẽ tìm ra được giải pháp dễ dàng hơn. Ví dụ chúng ta đang gặp vấn đề nan giải. Nếu cứ đứng thật gần mà nhìn, ta sẽ thấy khổ đến không chịu nỗi, vì vậy cứ phải suy gẫm toàn những mặt tiêu cực. Ngược lại, quan sát vấn đề từ một khoảng cách, biểu lộ một cung cách thoải mái hơn, và xét vấn đề dưới những góc độ khác nhau, thì giúp chúng ta tìm được những khía cạnh tích cực của tình huống. Tôi thấy là cần phải kết hợp trí thông minh tự nhiên của mỗi người với lòng can đảm, để tạo ra niềm tin thật sự. Kinh nghiệm riêng đã dạy tôi rằng nhờ có thái độ này mà ta để đạt đến sự yên tĩnh của tâm hồn.

4. Các chính tri gia có thể có biện pháp nào để cho người dân được sung sướng hơn?
Tôi nghĩ vai trò này không chỉ giới hạn cho các chính trị gia mà thôi. Nó liên quan đến mọi người, những nhà giáo dục, khoa học gia, những người thiết lập các lý thuyết chính trị, các nhà tâm lý học, những người chuyên về khoa học tâm linh, những nhà trí thức. Tóm lại, việc tìm kiếm những phương thức cho sự bình an nội tâm là công việc của mỗi người. Ví dụ ngành y khoa ngày càng khám phá thêm nhiêu tương quan giữa sự thanh thản tâm hồn và sự lành mạnh thể xác. Đó là những công trình nghiên cứu đáng được phát triển thêm về chiều sâu.
Tôi phải nói rằng, quý vị trong hệ thống thông tin báo chí ở thời điểm này đóng vai trò rất quan trọng. Hệ thống thông tin báo chí hiện nay thuộc về một thời đại tân tiến và trong một phương diện, tôi tin ngành báo chí hành động như một nhà giáo dục, như một nhân tố kích thích tâm hồn con người. Như vây quý vị có một vai trò rất đặc biệt. Về điều này, tôi xin trình bày với quý vị một vài ý kiến: Tôi có cảm tưởng là ngành báo chí thông tin chú ý quá nhiều đến mặt xấu của những hoạt động của con người, khiến cho quần chúng có cảm tưởng là bản tính con người hoàn toàn xấu. Khi nghĩ như thế, tự nhiên người ta chán nản và thật sự có nguy cơ mất hết hy vọng. Loài người có bao nhiêu chuyện để đau khổ, dù chỉ trong phạm vi hạn hẹp của gia đình. Dù có muôn vàn vấn đề mà con người gặp phải, vẫn có một tiềm năng để biến đổi: vẫn có thể làm cho hoàn cảnh đó tốt đẹp hơn, vì thương cảm và từ bi ở trong bản tính của chúng ta. Bằng cách liên kết thông minh của con người với một động cơ thúc đẩy tốt lành, chúng ta có thể thay đổi cuộc đời của chúng ta, và cải tạo xã hội. Đối với tôi, đây là điều then chốt. Vì vậy tôi nghĩ rằng khi trình bày những vấn đề có quan hệ đến con nguồn thì quý vị nên trình bày một cách quân bình hơn. Dĩ nhiên tất cả những mặt xấu này của cuộc đời cũng đều quan trọng, chúng cho báo chí những chất liệu tốn nhưng cúng đừng quên đưa ra những mặt tốt của cuộc đời, căn bản trên bản chất con người và trí thông minh của ta.
Gần đây, trong một số quốc gia người ta bàn cãi nhiều về vai trò của báo chí. Có nên nói hoạch toẹt hết mọi chuyện không? Phải nói cách nào? Chỗ nào trong đời tư, báo chí không được đụng đến? Tôi có vài ý kiến về vấn đề này, nhất là đối với những nhân vật lãnh đạo. Có trường hợp mà một số vị này không cư xử đúng đắn trong cương vị của họ, không tỏ ra có nguyên tắc hay kỷ luật tự giác. Trường hợp này tôi nghĩ rằng chỉ có báo chí mới có quyền năng kiểm điểm, và đưa ra ánh sáng, những cung cách hành động như vậy; do đó, tôi ủng hộ hành động của nhà báo và đánh giá cao khía cạnh lục lọi dò xét. nơi nào cũng xen vào của họ. Không nên có khoảng cách chênh lệch giữa thể thống bên ngoài và đời tư của một người lương thiện. Tôi nghĩ báo chí phải cho công chúng thấy rằng một số khía cạnh hấp dẫn khác hẳn. Chính trong chiều hướng đó mà tôi hơi khuynh về sự can thiệp vào đời tư của người ta, nhưng không phải vì vậy mà quên rằng chủ đích chung của chúng ta là phục vụ con người để kiện toàn xà hội. Đừng hành động sai lạc, do những động cơ xấu thúc đẩy. Tôi tin là, nếu người ta không phơi trần hết thảy những tệ nạn xã hội như nghiện thuốc, giết người, hãm hiếp và lạm dụng trẻ em, thì những kẻ vô tội sẽ cứ hàng ngày chịu khổ. Nếu báo chí giải thích rõ ràng, công chúng rốt cục phải chú ý và tìm ra cách giảm bớt khổ đau.
Tôi cũng nghĩ rằng, khi nói đến luân thường đạo lý thường thì người ta gắn liền với nó với những khái niệm tôn giáo. Theo tôi, tách rời hai khái niệm luân lý và tôn giáo là điều quan trọng. Tôn giáo, lẽ di nhiên giúp chúng ta hiểu được đạo đức theo chiều sâu duy trì và phát triển nó, nhưng khi nói đến lòng vị tha hay tình thương yêu đồng loại chẳng hạn, phải biết tha thứ đạo đức này tự nó mà có. Không phụ thuộc vào tôn giáo, vì nó bắt nguồn từ bản tính thâm sâu của con người, đó là lòng nhân và tình thương yêu.

5. Ngài có thể nói khái niệm nghiệp tập thể, nghiệp chung của một quốc gia? Nghiệp chung này mô tả cái gì ?
Nói về nghiệp chung của một quốc gia là một đều dễ hiểu. Tuy nhiên, mặc dù sự chín muồi nghiệp quả của những người trong cùng một nhóm được gánh chịu trong cùng một lúc, điều này không có nghĩa là những nghiệp này được tích lũy trong cùng một thời gian. Tôi không tin là những duyên của một nghiệp chung được tạo ra cùng một lúc, mà chúng được tạo ra trong từng cá thể vào những thời đềm khác nhau. Sức mạnh của những hành động này và nhiều yếu tố khác nữa có thể tạo nên một sự nghiệp chung mà một nhóm người hay cả một nước phải gánh chịu.

6. Những tội nhân chiến tranh trong phần gương những xứ Âu Châu, Đông âu, và những quốc gia khác tại Á Châu như Cam Bốt và Việt Nam đã không hề được xét xử, và có khi còn được ân xá ngay cả trước khi được xét xử. Ngài nghĩ thế nào về việc này?
Thật đáng buồn, trong nhiều nước vừa mới thoát khỏi chế độ đàn áp, người ta thường biểu lộ lòng căm hờn và ý muốn trả thù trong khi đáng lẽ phải biết tha thứ và chấp nhận. Đây không phải là lúc trả thù và thanh toán trong những nước đã được dân chủ này. Ngược lại, đây là lúc tái thiết quốc gia, xã hội. Tôi đã bày tỏ điều này khi được viếng thăm một số trong những nước đó.
Tôi rất quý trọng và ngưỡng mộ những nghĩa cử của các tổ chức như cơ quan ân xá Quốc tế, họ làm việc một cách chân thành, có hiệu năng và tích cực trong lĩnh vực vi phạm nhân quyền.

7. Ngài nói đến sự giải giới nội tại mà phải kèm theo giải giới ngoại tại. Xin Ngài nói rõ thêm giải giới nội tại là gì trước thù hận của kẻ địch, trước lòng căm hận của chính mình. Trong tác phẩm Les Voies du Coeur, Ngài cho thấy có thể thành lập trong tương lai mộ đạo quân quốc tế. Vì Ngài chủ trương bất bạo động, thì họ sẽ hoạt đóng cách nào đây? Họ sẽ được vũ trang không?
Ai cũng biết ràng khả năng chém giết vẫn tồn tại chừng nào người ta còn vung gươm múa kiếm trong những bang giao quốc tế, hay cả trong phạm vi mỗi quốc gia. Mặt khác, phải xét lại vấn đề mua bán vũ khí vì tình thế hiện nay vừa khủng khiếp vừa vô trách nhiệm. Chúng ta suy nghĩ rất nghiêm chỉnh đến vấn đề vũ trang mà, một khi đã phân tích cặn kẽ, cho thấu rõ cơ chế quân đội là yếu tố chính dẫn đến tình trạng suy thoái của tình trạng hiện nay, mà nạn khủng bố là do vũ khí mà có. Vì vậy nguy cơ chiến tranh vẫn còn tồn tại ngày nào mà những cơ chế quân đội vẫn còn, ở phe này cũng như phe kia. Thế nên, cần phải dẹp bỏ quân đội, từ từ thôi. Dĩ nhiên, bắt đầu là giải giới nguyên tử, tiếp theo loại bỏ khí giới hóa học và vũ khí vi trùng, cuối cùng dẹp luôn vũ khí thông thường. Trước hết cần có sự bảo đảm quốc tế cho công cuộc giải giới này, nó cũng kiểm soát việc mua bán vũ khí, mà một số người đại diện là kẻ bất lương. Để giám sát việc giải giới này, có thể đưa vào những lực lượng nho nhỏ giống như một loại cảnh sát quốc tế. Liên Hiệp Quốc đã tham gia rất nhiều trong hành động quân sự để giải phóng; chúng ta có thể một lực lượng đa phương hay quốc tế giám sát một nước đã hoàn toàn giải giới, ý chính tôi muốn đưa ra, là những lực lượng tập thể này sẽ hoạt động như những lực lượng bảo vệ trị an. Lúc ấy mọi người sẽ thành Bồ tátm, chẳng cần vũ trang gì nữa! Nhưng tôi chắc là sẽ khó thực hiện.
Một số người có lẽ không biết giải giới nội tại là gì? Tôi cho rằng căm hận là kẻ thù độc địa nhất. Đó là kẻ thù của sự thanh thản tâm hồn, tình hữu nghị và sự hòa hợp, ba yếu tố then chốt cho một sự phát triển tích cực để thực hiện một thế giới tốt đẹp hơn. Vậy phải tiết giảm hận thù và phát huy đức từ bi, lòng thương cảm. Đó chính là điều mà tôi gọi là giải giới nội tại.

8. Giận và ghét khác nhau thế nào?
Riêng tôi thường phân biệt hai loại tâm lý vẫn đục này như sau. Ghét gắn liền với sự oán hận người khác, không bao giờ có động lực là lòng xót thương. Vậy cần phải hủy diệt nó hoàn toàn. Giận bộc lộ một phản ứng cảm xúc tức thì, mà trong Mật tông, có thể sử dụng được để tu hành. Cũng có khi vì thương mà người ta nổi giận. Ví dụ như để thúc giục kẻ khác phải tiến hành một hành động khẩn trương.

9. Xin Ngài định nghĩa thế nào là một kẻ thù ?
Khi thấy mình giận ai đến tím mặt, thì biết ngay kẻ thù là gì. Chương bàn về lòng khoan dung và sự kiên nhẫn trong Bồ tát hạnh của Shantideva định nghĩa kẻ thù là người hăm dọa mạng sống ta hay bạn hữu ta, của cải ta hay của cải họ v.v… Bạn của kẻ thù được xem như kẻ thù. Trong pháp môn chuyển hóa tư tưởng (Tạng ngữ Iodjong) có mục quan sát tính bình đẳng giữa mình và người, dẫn đến ý niệm không còn thù hay bạn. Không phải phủ nhận sự hiện hữu của họ: kẻ thù và bạn vẫn còn đó; đúng hơn, sự tu tập này cho thấy không có lý do nào để giận những kẻ xem mình là thù, hay quyến luyến một số người vì họ là bạn hay bà con ta, nhưng từ một góc độ khác nhau, có thề xem kẻ ấy là bạn, vì đã cho ta cơ hội để tập tính nhẫn nhục, khoan dung. Nếu nhìn ở khía cạnh này thì anh ta không còn là kẻ thù nữa, mà thật hữu ích và có lợi.

10. Một người Tây Tạng giết chết một con trâu để nuôi sống gia đình có hành động tiêu cực không? Câu hỏi cũng đặt ra nhu vậy đối với những người cận vệ, vì để bảo vệ tính mạng cho Ngài, phải biết giết người?
Chúng ta phải biết hiểu những trường hợp này như thế nào? Dĩ nhiên đây là những hành động tiêu cực. Cường độ tạo nghiệp của mỗi hành động tùy thuộc vào nhiều yếu tố như ý định thúc đẩy hành động, ngay chính hành động và suy nghĩ tiếp theo sau hành động.

11. Trong lúc theo giáo lý nhà Phật, làm sao sống trong nhũng biến cố tàn bạo như chiến tranh ?
Điều quan trọng hơn hết phải tránh chém giết: tự cho mình có quyền cướp mạng sống của ai là một điều dứt khoát không bao giờ chúng ta được nghĩ đến.

12. Không bám víu khác với thờ ơ lãnh đạm như thế nào?
Rất khác: lãnh đạm là hoàn toàn không quan tâm đến đối tượng đang đề cập, trong khi không bám víu hàm ý còn có một liên hệ.
Để sáng tỏ ý tôi nói, hãy xét sự bám víu là gì? Nó có hai loại: loại thứ nhất cần từ bỏ, đó là khi sự bát víu phát sinh do tâm trí bị khuấy động vì nỗi thèm muốn hay do bất kỳ động cơ tâm lý tiêu cực, loại thứ hai là tình cảm hướng đến những đối tượng đáng thương khuynh hướng này không xuất phát từ những xúc động tiêu cực thì phải được đào sâu và tăng trưởng.
Khi quán tưởng tính Không (vacuité) chúng ta được thúc đẩy phải nới rộng sự bám giữ sai lạc các hiện tượng và sự cố, tưởng rằng chúng có một sự hiện hữu chắc chắn, biệt lập. Buông thả sự bám giữ sai lầm đều thiết yếu, nhưng vẫn phải có ý thức phân biệt cái gì phải vun trồng cái gì nên từ bỏ, và cố gắng phát huy tiềm năng của những đức tính lành mạnh và tích cực đồng thời dẹp bỏ sức mạnh của những khuynh hướng tiêu cực và độc hại. Khả năng phân biệt của ta vẫn còn nguyên vẹn. Trong cùng chiều hướng suy nghĩ đó. Bồ tát phải hủy tận gốc sự kiêu ngạo, tự hào, Tính khiêm cung tự nhiên đặt vị ấy ở sau mọi người. Tuy nhiên, điều này không thể ảnh hưởng đến niềm tin vô song và lòng can đảm tuyệt vời của Bồ tát khi dấn thân giải thoát chúng sinh khỏi khổ ách. Gương từ bi rộng lớn không lẫn bám víu tiêu cực nào, chứng tỏ rằng trọng hạnh phúc người khác hơn hạnh phúc riêng
Chính nhờ trí tuệ và sự tu tâm luyện tính trong trong phương tiện khéo léo cũng như khả năng sáng tạo của tâm hồn điều cần thiết mà ta có thể thấy sự khác biệt rất vi tế giữa yếu tố nuôi dưỡng bản ngã, tức sự bám víu, và những đức tính tích cực lợi tha. Chỉ có sự kết hợp phương tiện và trí tuệ mới phân biệt đúng được. Tôi thường nói rằng nhắc đến cái "tôi" đương hàm một ý thức mạnh mẽ về tự ngã. Một trong những hình thức biểu lộ bản ngã là không cần để ý đến kẻ khác, không đếm xỉa đến hạnh phúc của họ, thậm chí có thể vì tư lợi mà khai thác bất kỳ điều gì làm cho mình sung sướng. Thái độ tâm lý là rất tiêu cực cần phải đánh đổ. Ngược lại một khía cạnh khác của cái "tôi" có thể biểu thị bằng lòng tự tin rộng lớn, khiến ta có thể nói: "Mình có thể hoàn tất điều này điều nọ. Mình có thể làm việc cho mọi người được sung sướng. Mình sẽ đạt đến toàn giác (eveil parfait) để làm lợi cho chúng sinh”. Cảm thức ấy thì đừng dẹp bỏ mà ngược lại, phát huy nó, tăng cường nó! Trên con đường tu tập, tâm trí ta bề ngoài vẫn thảnh thơi, thoải mái, nhưng tự thẳm sâu trong tâm hồn phải thật minh mẩn tỉnh giác, luôn sử dụng một cách sáng suốt sự phản tỉnh và chú tâm.

Nguyễn Thị Phương Thanh dịch (Lược theo Au de là des dogmes)
Nguồn: Văn Hóa Phật Giáo – Số 48

Sunday, July 1, 2012

LÀM THẾ NÀO ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI BÌNH ĐẲNG

LÀM THẾ NÀO ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI BÌNH ĐẲNG

Qua bài viết trước đây của tôi, “Bình đẳng – lý tưởng chung của mọi xã hội”, chúng ta đã biết được bình đẳng là mơ ước và mục tiêu chung của mọi xã hội. Qua đó, ta cũng thấy rằng bình đẳng chính là thước đo trình độ văn minh và tiến bộ của một đất nước, một xã hội. Về nghĩa đen, bình đẳng có nghĩa là ngang bằng, còn về nghĩa mở rộng, bình đẳng là lý tưởng xem mọi người đều có giá trị như nhau bất kể sự khác biệt về màu da, sắc tộc, nguồn gốc, tôn giáo, địa vị, sở hữu… Chính nhờ lý tưởng này mà chúng ta thấy rằng mọi người sinh ra trên trái đất này cần được hưởng những quyền lợi và cơ hội thăng tiến như nhau trong xã hội (quyền được mưu cầu hạnh phúc). Tuy vậy, nhìn vào thế giới ngày nay, ta thấy rằng vẫn còn nhiều nước mà lý tưởng này vẫn chưa hiện thực được, người dân ở đó vẫn còn phải chịu nhiều oan khuất, bất công. Tại sao việc xây dựng một xã hội bình đẳng lại quá khó khăn? Phải chăng có sự khác biệt lớn giữa nhận thức và hành động của chúng ta? Vấn đề đặt ra là làm sao để xây dựng một cơ chế để đảm bảo sự bình đẳng giữa mọi người.

Đầu tiên, chúng ta cần tìm hiểu nguồn gốc của sự bất bình đẳng. Nhìn vào hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội, ta thấy nguyên nhân nằm ở ý thức của những người sống trong xã hội đó. Chẳng hạn, có những nhóm người tự cho mình ở vị trí cao hơn kẻ khác và, vì vậy (theo họ nghĩ) đương nhiên họ được hưởng những quyền lợi cao hơn kẻ khác. Ví dụ: ở xã hội chiếm hữu nô lệ, người chủ nô nghĩ rằng họ có vị trí cao hơn những người nô lệ, cho nên họ thiết lập những điều luật để đảm bảo quyền lợi của mình bằng cách bóc lột và hạn chế quyền tự do của nô lệ; ở xã hội phong kiến, vua được cho là có vị trí cao nhất trong xã hội, vì vậy những quy định trong xã hội đó nhằm đảm bảo quyền lợi tối thượng của vua, và người dân ở vị trí thấp nhất phải tuân thủ những quy định do vua đặt ra cho dù quy định đó có bất công đến đâu. Ta thấy rằng, sự phát triển của xã hội loài người đi cùng với sự thay đổi nhận thức của họ, theo hướng loại bỏ dần những hiện tượng bất bình đẳng này. Chính nhận thức của con người là nguyên nhân căn bản khiến họ chấp nhận những hiện tượng bất công trong xã hội. Vì vậy, ngày nay nhận thức của chúng ta mở rộng, những kiểu đối xử kỳ thị giữa chủ nô và nô lệ, hay kiểu quan hệ “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” giữa vua-tôi trong thời phong kiến không còn đất tồn tại nữa. Chính vì vậy, vấn đề căn bản để xây dựng xã hội bình đẳng là nuôi dưỡng ý thức yêu chuộng sự công bằng ở mọi người dân, và xây dựng thiết chế xã hội để đảm bảo quyền bình đẳng và cơ hội phát triển như nhau giữa mọi người trong xã hội.

Trong quá khứ, chúng ta thấy có nhiều chủ thuyết đưa ra nhằm xây dựng một xã hội bình đẳng, trong đó gần đây nhất có chủ thuyết về đấu tranh giai cấp. Chủ thuyết này cho rằng trong xã hội luôn tồn tại 2 giai cấp là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, từ đó dẫn đến những vấn đề bất bình đẳng giữa 2 giai cấp đó, giải pháp cho vấn đề là dùng đấu tranh cách mạng để lật đổ giai cấp thống trị và xây dựng một xã hội đại đồng không còn giai cấp nữa. Nhưng thật tế cho thấy rằng giải pháp này gặp thất bại vì không thể xây dựng được 1 xã hội không giai cấp. Bởi vậy, sau khi lật đổ giai cấp thống trị, họ vẫn không thể xóa bỏ ranh giới giai cấp, mà lại xây dựng nên 1 giai cấp thống trị mới, và như thế vòng luẩn quẩn của đấu tranh giai cấp sẽ không bao giờ chấm dứt. Vì vậy, ta cần phải chấp nhận một thực tế, đó là xã hội loài người luôn đa dạng, gồm nhiều thành phần, giai cấp khác nhau. Vấn đề chính trong việc xây dựng xã hội bình đẳng là làm sao để mọi người có thể chung sống hòa bình, an lạc và tôn trọng lẫn nhau. Muốn được như vậy, ta cần phải bắt đầu từ việc thay đổi nhận thức của mỗi người trong xã hội, sao cho ai cũng biết yêu chuộng sự công bằng, biết nhìn mọi người bằng con mắt bình đẳng, biết hành xử và tôn trọng quy tắc bình đẳng này để có thể sống chung an lạc với mọi người xung quanh. Ngoài ra, ta cũng cần những luật định để nghiêm phạt những ai vi phạm và áp dụng hình phạt một cách đồng đều. Hơn nữa, ta cũng cần những người lãnh đạo gương mẫu, đi tiên phong trong việc xây dựng xã hội bình đẳng.

Nhìn vào lịch sử, ta thấy việc thay đổi ý thức xã hội và xây dựng cơ chế cho 1 xã hội bình đẳng phát triển là có thể thực hiện được, chỉ cần sự quyết tâm và tài lãnh đạo. Cách đây hơn 2 thiên niên kỷ, ở xứ sở Ấn Độ đầy ý thức phân biệt giai cấp, chính Đức Phật Thích Ca là người đầu tiên đã tuyên bố 1 cách rõ ràng và mạnh mẽ về lý tưởng bình đẳng này qua phát biểu “Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn, dòng máu cùng đỏ”. Lý tưởng này đến nay ngày càng chứng tỏ giá trị của nó trong một xã hội hiện đại. Để hiện thực lý tưởng đó, Đức Phật đã bắt đầu từ việc chuyển đổi ý thức của các đệ tử, bằng việc giảng dạy và huân tập ý thức về “Vô Ngã, Vị Tha”, luôn tôn trọng sự sống của mọi người, mọi loài. Bắt đầu từ việc thay đổi nhận thức sai lầm về mối quan hệ giữa mình và người để có được chánh kiến về sự bình đẳng, đi dần đến việc mở rộng lòng yêu thương để có thể cảm thông, chia sẻ nỗi khổ của người khác. Từ đó, làm cơ sở để phát triển một cộng đồng tu học đầy tình yêu thương, nhân ái và bình đẳng. Không những bằng lời giảng, mà chính trong hành động của Ngài cũng thể hiện lý tưởng đó, như nhận vào giáo đoàn tất cả mọi người từ đủ mọi giai cấp, ngành nghề. Đây có thể được xem là kiểu mẫu để xây dựng 1 xã hội bình đẳng trong tương lai.

Nhìn vào hiện trạng nước ta, lý tưởng bình đẳng đã được thực hiện tới đâu? Liệu người dân có hưởng được quyền và lợi ích bình đẳng trước pháp luật như hiến pháp nước ta vẫn thừa nhận? Nhìn chung, mức độ bình đẳng ở nước ta còn thấp và mới dừng nhiều ở lý thuyết mà chưa đi vào thực tiễn cuộc sống. Có thể kể ra 1 số điển hình của bất bình đẳng như: giữa nông thôn & thành thị, giữa đảng viên & người ngoài đảng, chính quyền & nhân dân, người giàu & người nghèo… Dựa vào các nghiên cứu kinh tế gần đây, một hiện tượng nổi bật ở nước ta là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn, kéo theo nó là sự bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo. Trong khi người giàu được tự do chọn lựa các dịch vụ giáo dục, y tế, giải trí… thì người nghèo chỉ có thể tiếp cận những dịch vụ giáo dục, y tế rẻ tiền nhất (và nếu không có tiền thì bị loại ra khỏi hệ thống). Ngoài ra, một hiện tượng bất bình đẳng cũng đang gia tăng là giữa công chức nhà nước và dân thường trong việc tiếp cận thông tin và việc bào chữa. Khi đối diện với cùng 1 tội trạng thì công chức nhà nước thường được xử nhẹ, còn dân thường thì phải chịu án nặng (vd. công an đánh dân & dân đánh công an). Một hiện tượng cũng được nói tới nhiều trong những năm vừa qua là sự bất bình đẳng giữa công nhân và chủ nước ngoài (thể hiện ở tỷ lệ gia tăng số cuộc đình công ở các khu công nghiệp). Trong khi việc đình công thường bị xem là bất hợp pháp và đầy rủi ro đối với công nhân, thì các chủ tư bản nước ngoài vẫn được các chính quyền địa phương chào đón và tạo nhiều thuận lợi. Đặc biệt nghiêm trọng là sự liên kết giữa chủ dự án đầu tư nước ngoài với chính quyền địa phương trong việc cưỡng chế đất đai của nông dân, dẫn tới tỷ lệ gia tăng của số lượng dân oan và những khiếu kiện dai dẳng liên quan đến đất đai vì mâu thuẫn quyền lợi giữa một bên là người nông dân mất đất và bên kia là chủ đầu tư + chính quyền. Tất cả các hiện tượng trên, cho thấy đã đến lúc chúng ta phải hành động để thay đổi hiện trạng xã hội, theo hướng bình đẳng hơn, giảm bớt bất công, để có thể mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân như mục tiêu xưa giờ của mọi lực lượng lãnh đạo đất nước.

Như vậy, để thay đổi hiện trạng xã hội theo hướng bình đẳng hơn, ta cần phải tập trung vào 2 nhóm giải pháp chính: (1) giáo dục ý thức yêu chuộng sự công bằng ở mọi người dân, bắt đầu từ giáo dục ở cấp tiểu học; (2) sửa đổi hiến pháp và pháp luật sao cho phản ánh được tiếng nói của mọi thành phần trong xã hội, đảm bảo sự giám sát chéo, hạn chế sự lạm quyền, cho phép sự chỉnh sửa hệ thống theo hướng tiến bộ hơn. Ngoài ra, chúng ta cũng cần 1 nhà lãnh đạo biết yêu chuộng sự công bằng, có tài lãnh đạo và quyết tâm thay đổi xã hội theo hướng tiến bộ hơn, công bằng hơn.

Liên quan đến giải pháp (1), chúng ta cần sửa đổi chương trình và phương pháp giảng dạy để giúp các em học sinh có ý thức yêu chuộng sự công bằng. Không những bằng bài giảng, mà phải áp dụng trong các công việc cụ thể, như: biết xếp hàng chờ đến lượt mình, biết dừng đèn đỏ, có quy định phạt đối với những em vi phạm tính công bằng, như chen ngang, vượt đèn đỏ… Phụ huynh cũng phải góp phần vào công tác giáo dục này, bằng cách không chạy trường, chạy điểm, cho con em học thêm… Muốn giáo dục các em về sự công bằng, chính thầy cô, nhà trường, và phụ huynh phải là những tấm gương tôn trọng nề nếp, kỷ luật chung, không vì lợi mình mà vi phạm tới lợi ích của người khác. Liên quan đến giải pháp (2), chúng ta cần xây dựng một xã hội pháp trị, trong đó cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp có vai trò giám sát lẫn nhau, đồng thời có sự giám sát của người dân thông qua các cơ quan thông tấn, báo chí độc lập. Trước mắt, cần xây dựng được một quốc hội đúng nghĩa, gồm những người đại diện xứng đáng của dân, có tâm, có tầm là bước cơ bản để thay đổi các thiết chế sai lầm hiện tại, đề ra các quy định hợp lý, đảm bảo quyền lợi của mọi người dân, hạn chế sự lạm quyền của cơ quan hành pháp. Từ đó, làm cơ sở để xây dựng 1 hệ thống pháp luật vững mạnh, phù hợp với thông lệ quốc tế, nêu cao tính gương mẫu của pháp luật, công bằng với mọi đối tượng, có chiếu cố đến những đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội. Bằng việc thực hiện 2 nhóm giải pháp trên, cùng với thời gian, ta sẽ chọn ra được những người lãnh đạo có tài có tâm để dẫn dắt công cuộc thay đổi xã hội thật sự hướng về mục tiêu Công bằng, Dân chủ, Văn minh. Đó là mơ ước của tôi về một nước Việt Nam bình đẳng, phú cường. Hy vọng rằng ước mơ này sẽ trở thành hiện thực trong 1 ngày không xa.

Sài Gòn, 7/2012
TS. Phạm Quốc Trung

Friday, June 1, 2012

Thơ cho con


Thơ cho con
(Tặng con trai nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6/2012)

Bố viết cho con những dòng thơ
Thương con chan chứa đến vô bờ
Mong con khôn lớn ra giúp nước
Nối chí cha ông, dệt ước mơ...

Bố mong con lớn sẽ thông minh
Minh Trí, mà luôn giữ vẹn tình
Trí sáng và lòng càng phải sáng
Mới giúp được đời, độ chúng sinh

Quê hương còn lắm nỗi nhiễu nhương
Biển Đông sóng dậy, lắm tai ương
Văn hóa điêu tàn, ôi đảo ngược
Niềm tin đánh mất, chỗ nào nương?

Mai sau con lớn học thành tài
Tung hoành đây đó, thỏa chí trai
Này đây gươm báu, đây sách ước
Bố đã trao con, tự thuở này...

Mong con khôn lớn thật là mau
Xây dựng quê hương thật đẹp giàu
Nước nhà toàn vẹn, cùng vui sống
Tự hào nước Việt mãi vươn cao...

Saturday, May 19, 2012

My son's photos

Tên bé: Phạm Minh Trí
Ngày sinh: 5-5-2012
Giờ sinh: 7:25 sáng
Cân nặng: 3,4 kg

Tuesday, May 1, 2012

Trang tron thang tu


Trăng tròn tháng tư  
Sáng tác: Chúc Linh

Từ vườn Lâm Tỳ Ni, đấng Thế Tôn đản sanh
Hoa vô ưu tươi nở ngát hương thơm mười phương
Thành Ca Tỳ La Vệ gió reo vui trời bừng sáng
Người người hân hoan loan tin vui
Tất Đạt Đa thái tử ra đời.

Ánh sáng Như Lai, diệt tham sân si, sáng soi đạo vàng.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư chúng con xin lạy người.

Đạo vàng hương Từ Bi đem đến cho mọi người
Xóa tan đi ưu phiền sống vui trong lục hòa
Lòng con nguyện tinh tấn quyết đi theo đường chân lý
Dù gặp bao nguy nan oan khiên,
Vững lòng tin dưới bóng cha lành.

Tiếng chuông ngân vang, thành tâm chúng con, cúi xin lạy người.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư chúng con xin quỳ kính.

Tuesday, April 24, 2012

Nhặt cánh Vô ưu


Nhặt cánh Vô ưu

Viên Trí
Ân Độ! Từ ngàn xưa, Ấn Độ đã là thánh địa đối với người con Phật. Chính từ vùng đất lịch sử này mà những danh tăng Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... đã trở thành bất tử đối với Phật giáo Trung Hoa sau những chuyến du hành vĩ đại. Dĩ nhiên, hai chữ “Ấn Độ” này vẫn luôn là mộng ước của giới Phật giáo mười phương. Rồi như lời Phật dạy, “nghiệp là hành động có tác ý”.
“Tây du” thời nay không còn phải trèo đèo vượt núi, không kinh qua những sa mạc ngập tràn tử khí, hoặc giông tố bão bùng của đại dương mênh mông luôn đe dọa sinh mạng của kẻ hải hành. Hành hương hôm nay chỉ cần vài tiếng đồng hồ yên ngủ trên những con đại bàng sắt đầy đủ mọi tiện nghi như thượng khách của nàng công chúa trong lâu đài vàng là đã đặt chân đến Phật địa. Phải chăng do sự văn minh của thế giới vật chất ngày nay, với sự bùng nổ của thời đại thông tin, và với chiếc đũa thần vạn năng của khoa học mà Ấn Độ như đang hiện diện trong tầm mắt của mọi người đã làm cho những chuyến hành hương Phật tích đã giảm đi phần ý nghĩa của nó. Đấy là sự thật, trong một giới hạn nào đó của ý tưởng.

Nhưng kìa, những dấu chân của Đấng Giác Ngộ như còn in dấu đâu đây thôi thúc lòng kính tín của người con Phật mười phương: “Này A Nan, những ai trong khi chiêm bái những thánh tích (Lumbini, Sarnath, Bodhgaya và Kusinaga) này mà từ trần với tâm thâm tín, hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sinh cõi thiện thú, thiên giới”. Và những di sản vô giá này đang mãi là những chứng nhân hùng hồn về một Đức Phật lịch sử đối với giới Phật tử luôn mong tìm dấu vết Đức Bổn Sư. Ấn Độ quả đáng tự hào, vì đã được cưu mang một Đấng Đại Giác để hơn 2500 năm sau những vết mòn của Ngài đã trở thành bảo vật của thế giới, và luôn ngập đầy ngôn ngữ từ muôn phương.

Đường vào Lâm Tỳ Ni ngày nay không còn thơ mộng như thuở hồng hoang, lúc mà hoàng  hậu Ma Da trên đường trở về cố quốc Thiện Giác từ Ca Tỳ La Vệ để hiến dâng cho cuộc đời một Thánh nhân vĩ đại mà bà đã có diễm phúc thai mang. Lâm Tỳ Ni bây giờ không còn là rừng cây Vô ưu (Asoka) bạt ngàn đầy bóng mát, và luôn trổi lên những khúc nhạc thanh bình của chim chóc, muôn hoa, nơi mà đã khiến người mẹ hạnh phúc nhất trần thế, trong một khoảnh khác thư thái thân tâm, với tay hái đóa Vô ưu ngàn năm hé nở một lần rồi hạ sanh hoàng tử. Và dường như rằng Lâm Tỳ Ni hôm nay cũng đang giảm dần tính thiêng liêng và huyền diệu của nó khi có quá nhiều dục vọng của con người phủ đầy lên đó với vô vàn khẩu hiệu của phàm nhân. Sau hơn 25 thế kỷ hứng chịu quy luật vô thường, Lâm Tỳ Ni hôm nay chỉ còn sót lại một số di tích đang được bảo bọc bởi những lớp tường thành chùa tháp với đủ hình thái kiến trúc Phật giáo từ nhiều quốc gia, một nỗ lực chung của những người con Phật nhằm bảo vệ dấu tích của Đấng Đạo Sư trước sự tàn phá của thời gian và lòng người đầy trắc ẩn. Lịch sử ghi lại rằng vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, A Dục vương từng ngự giá đến đây để chiêm ngưỡng Thánh tích, và với lòng quy kính, một trụ đá được sai dựng tại chốn này để đánh dấu nơi ra đời của bậc Thượng  nhân, rồi theo năm tháng, trụ đá ấy vẫn đang tồn tại để ấn chứng cho sự kiện lịch sử này. Cũng trong chuyến hành hương này, nhà vua đã ân giảm thuế má cho cư dân tại Lâm Tỳ Ni vì “Đức Từ Phụ đã hạ sinh tại đây”.

Nhưng theo thời gian, vết tích như mờ dần trong tâm hồn Ấn Độ đến nỗi người ta tự hỏi rằng ngày nay có bao nhiêu phần trăm dân số nước này đang hướng theo dấu chân Đức Phật! Đâu rồi ánh đạo huy hoàng và những trang sử đầy tính nhân văn tỏa ra từ giáo đoàn Phật giáo ngay trên vùng đất sản sinh trí tuệ siêu việt này! Đành rằng niềm tin chỉ là bước dẫn khởi trên lộ trình thực nghiệm tâm linh, nhưng người ta không thể vượt qua khổ ải nếu thiếu mất niềm tin. Cũng vì vậy, cuộc hành hương Phật tích của người con Phật được đánh dấu như bước đường thực nghiệm tâm linh, trong đó niềm tịnh tín được hiển lộ. Rồi như một hệ quả của sự thực hành lời Phật dạy, hương vị an lạc, giải thoát đến một cách tự nhiên qua tiến trình tâm lý: tín - tầm tư - tâm hân hoan - hỷ sanh - tâm an tịnh - lạc sanh - tâm định tĩnh - giải thoát sanh. Thật khó để diễn tả một trạng thái tâm linh vốn chỉ dành cho những ai tự thân thực nghiệm, nhưng có phải chăng một bước đường như vậy, bước đường chiêm bái Phật tích đúng như lời Phật dạy, đã minh chứng sinh động ý nghĩa hành hương?

Trăng thượng tuần đã ló dạng. Thấp thoáng một vài áng mây. Cả thế nhân đang quy ngưỡng về Lâm Tỳ Ni để chiêm ngưỡng hoa Ưu đàm hé nụ. Ngày ấy trăng rằm sáng lắm, những đám mây che mờ dương thế sẽ bay đi.

“Ai dùng các hạnh lành
Làm xóa mờ nghiệp ác
Chói sáng cõi đời này
Như trăng thoát mây che”.

Hoa Ưu đàm nở, hoa Ưu đàm rụng nhưng hương còn mãi. Hạnh phúc thay cho ai được một lần trở về nhặt cánh Vô ưu!

Tuần báo Giác Ngộ, số Phật đản PL. 2546

Sunday, April 8, 2012

Giới thiệu phần mềm ADONIS để mô hình hóa quy trình kinh doanh


Giới thiệu phần mềm ADONIS để mô hình hóa quy trình kinh doanh

Tôi được biết đến phần mềm ADONIS này cách đây 3 năm, khi tham dự 1 hội thảo về Quản lý Tri thức ở ĐH. Vienna, Áo. Đây là phần mềm được phát triển bởi Bộ môn Công nghệ Tri thức (1 nhánh của khoa CNTT) của ĐH. Vienna. Phiên bản dùng cho giáo dục và hướng dẫn sử dụng của phần mềm này có thể được tải về miễn phí từ trang web sau http://www.adonis-community.com/

Mục tiêu của phần mềm là hỗ trợ 1 bộ công cụ giúp các doanh nghiệp mô hình hóa quy trình kinh doanh của mình (business process modelling). Nhìn bề ngoài, nó cũng tương tự như các phần mềm BPM khác, như: MS. Visio, Power Designer, Rational Rose... Tuy nhiên, ADONIS còn đi xa hơn các phần mềm trên nhờ khả năng phân tích mô hình và mô phỏng kết quả nhằm giúp cho việc tối ưu hóa mô hình đã có. Chằng hạn như, sau khi mô hình hóa, ADONIS còn cho phép người dùng đưa vào mô hình các thông số định lượng về thời gian xử lý của mỗi công đoạn, và sử dụng công cụ phân tích mô hình đính kèm với bộ phần mềm để có thể mô phỏng và đánh giá tính hiệu quả của mô hình. Trên cơ sở kết quả phân tích, người sử dụng có thể tái thiết kế lại quy trình kinh doanh theo hướng giảm thiểu chi phí và tối ưu hóa hiệu quả vận hành. Ngoài ra, nó cũng hỗ trợ các tính năng khác như: liên kết mô hình, thêm các chú thích vào mô hình (notation), nhập & xuất mô hình qua lại giữa các công cụ BPM phổ biến.

Xét về khả năng ứng dụng thực tế, đây là 1 phần mềm khá mạnh mẽ trong việc giúp các doanh nghiệp hiểu được quy trình kinh doanh hiện tại ở đơn vị mình, từ đó có kế hoạch chuẩn hóa quy trình kinh doanh và đề xuất các quy trình cải tiến. Trong bối cảnh Việt Nam, hiện nay các doanh nghiệp quy mô nhỏ chiếm đa số (hơn 90% tổng số doanh nghiệp), trong đó đa phần là chưa có các quy trình kinh doanh chuẩn hóa, mô hình quản lý còn theo phong cách tùy tiện, kiểu gia đình... Chính vì vậy, khi hội nhập với cuộc cạnh tranh toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhanh chóng chuẩn hóa các quy trình kinh doanh của mình nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh. Hơn nữa, việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của các tổ chức ngày càng trở nên 1 nhu cầu bức thiết để đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của các doanh nghiệp, mà trong đó yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của việc ứng dụng HTTT hiện đại là 1 quy trình kinh doanh minh bạch, rõ ràng và hiệu quả.

Theo thống kê của các đơn vị tư vấn triển khai các dự án ERP, nguyên nhân lớn nhất cho việc thất bại khi triển khai dự án ERP ở các DNVN là do thiếu 1 quy trình kinh doanh chuẩn hóa. Chính vì vậy, đa phần các đơn vị tư vấn đều khuyến khích các DN triển khai ERP nên tiến hành chuẩn hóa quy trình kinh doanh trước khi (hoặc song song với) triển khai hệ thống ERP để đảm bảo sự thành công của dự án. Vì vậy, việc tìm hiểu và ứng dụng phần mềm mô hình hóa và phân tích quy trình kinh doanh như ADONIS là rất quan trọng đối với các DNVN có ý định triển khai các dự án tin học hóa hay các HTTT hiện đại như ERP, SCM, CRM...

Ở mức độ vĩ mô, nước ta đang ở một bước chuyển đổi trong việc định hướng mô hình phát triển kinh tế của đất nước. Nhà nước đang kêu gọi tái cấu trúc khối doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng và các hoạt động đầu tư công. Việc ứng dụng 1 giải pháp CNTT như sử dụng phần mềm ADONIS, cũng có thể giúp các nhà hoạch định chính sách phần nào thấy được bức tranh tổng thể của các quy trình, thủ tục, cơ chế hiện tại, từ đó, phân tích bằng các công cụ định lượng, mô phỏng lời giải và tìm ra được phương án tốt nhất cho việc tái cấu trúc nền kinh tế. Đó là kỳ vọng lớn hơn mà cách tiếp cận này hy vọng có thể đóng góp cho quá trình tìm ra 1 mô hình hoạt động tốt hơn cho nền kinh tế quốc gia. Từ đó, góp phần đưa đất nước vượt qua những khó khăn hiện tại và mở ra 1 lộ trình phát triển mới bền vững hơn và nhanh chóng hơn.

SG, tháng 4/2012
Phạm Quốc Trung, PhD.

Monday, March 26, 2012

MÙA TRĂNG



MÙA TRĂNG


PHẠM-TRƯỜNG-LINH
(Kính tặng thầy và anh em trong đêm giỗ tổ).

Trăng thứ nhất ta về đây giỗ tổ
Giữa vườn thầy thơm ngát hương hoa đêm,
Ta thấy trong hồn thẳm của anh em,
Một khát vọng vô cùng vô tận.

Nỗi thao thức đau hơn niềm uất hận,
Rất lung linh huyền ảo khó nên lời
Ta hiểu nhau đến tận đáy lòng người
Khi đèn tắt trăng mờ đêm tịch mịch.

Trăng thứ hai rặng cây xanh bờ liễu
Lối nghìn trùng miên miết đuổi theo ai
Trong sương khuya rớt rớt hột mưa dài
Ta đã thấy một chân trời viễn mộng

Con thưa thầy, giữa đường đời gió lộng
Đêm hôm nay xin đứng dậy làm người
Đêm Lam Sơn rừng núi đang gọi mời
Gió lồng lộng thổi qua hồn quá khứ,

Thưa cha mẹ, đây bắt đầu trang sử
Một mùa trăng kết tự mấy mùa trăng
Đây núi sông bàng bạc bốn nghìn năm
Đang trỗi dậy trong hồn người Bách Việt.

Hoa tư tưởng giữa trời xuân băng tuyết
Đóa tinh anh máu huyết tạo nên hình
Có nghe sông núi chuyển mình
Như hơi thở lúc tự tình nước non.