Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Tuesday, May 1, 2012

Trang tron thang tu


Trăng tròn tháng tư  
Sáng tác: Chúc Linh

Từ vườn Lâm Tỳ Ni, đấng Thế Tôn đản sanh
Hoa vô ưu tươi nở ngát hương thơm mười phương
Thành Ca Tỳ La Vệ gió reo vui trời bừng sáng
Người người hân hoan loan tin vui
Tất Đạt Đa thái tử ra đời.

Ánh sáng Như Lai, diệt tham sân si, sáng soi đạo vàng.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư chúng con xin lạy người.

Đạo vàng hương Từ Bi đem đến cho mọi người
Xóa tan đi ưu phiền sống vui trong lục hòa
Lòng con nguyện tinh tấn quyết đi theo đường chân lý
Dù gặp bao nguy nan oan khiên,
Vững lòng tin dưới bóng cha lành.

Tiếng chuông ngân vang, thành tâm chúng con, cúi xin lạy người.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Bổn Sư chúng con xin quỳ kính.

Tuesday, April 24, 2012

Nhặt cánh Vô ưu


Nhặt cánh Vô ưu

Viên Trí
Ân Độ! Từ ngàn xưa, Ấn Độ đã là thánh địa đối với người con Phật. Chính từ vùng đất lịch sử này mà những danh tăng Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... đã trở thành bất tử đối với Phật giáo Trung Hoa sau những chuyến du hành vĩ đại. Dĩ nhiên, hai chữ “Ấn Độ” này vẫn luôn là mộng ước của giới Phật giáo mười phương. Rồi như lời Phật dạy, “nghiệp là hành động có tác ý”.
“Tây du” thời nay không còn phải trèo đèo vượt núi, không kinh qua những sa mạc ngập tràn tử khí, hoặc giông tố bão bùng của đại dương mênh mông luôn đe dọa sinh mạng của kẻ hải hành. Hành hương hôm nay chỉ cần vài tiếng đồng hồ yên ngủ trên những con đại bàng sắt đầy đủ mọi tiện nghi như thượng khách của nàng công chúa trong lâu đài vàng là đã đặt chân đến Phật địa. Phải chăng do sự văn minh của thế giới vật chất ngày nay, với sự bùng nổ của thời đại thông tin, và với chiếc đũa thần vạn năng của khoa học mà Ấn Độ như đang hiện diện trong tầm mắt của mọi người đã làm cho những chuyến hành hương Phật tích đã giảm đi phần ý nghĩa của nó. Đấy là sự thật, trong một giới hạn nào đó của ý tưởng.

Nhưng kìa, những dấu chân của Đấng Giác Ngộ như còn in dấu đâu đây thôi thúc lòng kính tín của người con Phật mười phương: “Này A Nan, những ai trong khi chiêm bái những thánh tích (Lumbini, Sarnath, Bodhgaya và Kusinaga) này mà từ trần với tâm thâm tín, hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sinh cõi thiện thú, thiên giới”. Và những di sản vô giá này đang mãi là những chứng nhân hùng hồn về một Đức Phật lịch sử đối với giới Phật tử luôn mong tìm dấu vết Đức Bổn Sư. Ấn Độ quả đáng tự hào, vì đã được cưu mang một Đấng Đại Giác để hơn 2500 năm sau những vết mòn của Ngài đã trở thành bảo vật của thế giới, và luôn ngập đầy ngôn ngữ từ muôn phương.

Đường vào Lâm Tỳ Ni ngày nay không còn thơ mộng như thuở hồng hoang, lúc mà hoàng  hậu Ma Da trên đường trở về cố quốc Thiện Giác từ Ca Tỳ La Vệ để hiến dâng cho cuộc đời một Thánh nhân vĩ đại mà bà đã có diễm phúc thai mang. Lâm Tỳ Ni bây giờ không còn là rừng cây Vô ưu (Asoka) bạt ngàn đầy bóng mát, và luôn trổi lên những khúc nhạc thanh bình của chim chóc, muôn hoa, nơi mà đã khiến người mẹ hạnh phúc nhất trần thế, trong một khoảnh khác thư thái thân tâm, với tay hái đóa Vô ưu ngàn năm hé nở một lần rồi hạ sanh hoàng tử. Và dường như rằng Lâm Tỳ Ni hôm nay cũng đang giảm dần tính thiêng liêng và huyền diệu của nó khi có quá nhiều dục vọng của con người phủ đầy lên đó với vô vàn khẩu hiệu của phàm nhân. Sau hơn 25 thế kỷ hứng chịu quy luật vô thường, Lâm Tỳ Ni hôm nay chỉ còn sót lại một số di tích đang được bảo bọc bởi những lớp tường thành chùa tháp với đủ hình thái kiến trúc Phật giáo từ nhiều quốc gia, một nỗ lực chung của những người con Phật nhằm bảo vệ dấu tích của Đấng Đạo Sư trước sự tàn phá của thời gian và lòng người đầy trắc ẩn. Lịch sử ghi lại rằng vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, A Dục vương từng ngự giá đến đây để chiêm ngưỡng Thánh tích, và với lòng quy kính, một trụ đá được sai dựng tại chốn này để đánh dấu nơi ra đời của bậc Thượng  nhân, rồi theo năm tháng, trụ đá ấy vẫn đang tồn tại để ấn chứng cho sự kiện lịch sử này. Cũng trong chuyến hành hương này, nhà vua đã ân giảm thuế má cho cư dân tại Lâm Tỳ Ni vì “Đức Từ Phụ đã hạ sinh tại đây”.

Nhưng theo thời gian, vết tích như mờ dần trong tâm hồn Ấn Độ đến nỗi người ta tự hỏi rằng ngày nay có bao nhiêu phần trăm dân số nước này đang hướng theo dấu chân Đức Phật! Đâu rồi ánh đạo huy hoàng và những trang sử đầy tính nhân văn tỏa ra từ giáo đoàn Phật giáo ngay trên vùng đất sản sinh trí tuệ siêu việt này! Đành rằng niềm tin chỉ là bước dẫn khởi trên lộ trình thực nghiệm tâm linh, nhưng người ta không thể vượt qua khổ ải nếu thiếu mất niềm tin. Cũng vì vậy, cuộc hành hương Phật tích của người con Phật được đánh dấu như bước đường thực nghiệm tâm linh, trong đó niềm tịnh tín được hiển lộ. Rồi như một hệ quả của sự thực hành lời Phật dạy, hương vị an lạc, giải thoát đến một cách tự nhiên qua tiến trình tâm lý: tín - tầm tư - tâm hân hoan - hỷ sanh - tâm an tịnh - lạc sanh - tâm định tĩnh - giải thoát sanh. Thật khó để diễn tả một trạng thái tâm linh vốn chỉ dành cho những ai tự thân thực nghiệm, nhưng có phải chăng một bước đường như vậy, bước đường chiêm bái Phật tích đúng như lời Phật dạy, đã minh chứng sinh động ý nghĩa hành hương?

Trăng thượng tuần đã ló dạng. Thấp thoáng một vài áng mây. Cả thế nhân đang quy ngưỡng về Lâm Tỳ Ni để chiêm ngưỡng hoa Ưu đàm hé nụ. Ngày ấy trăng rằm sáng lắm, những đám mây che mờ dương thế sẽ bay đi.

“Ai dùng các hạnh lành
Làm xóa mờ nghiệp ác
Chói sáng cõi đời này
Như trăng thoát mây che”.

Hoa Ưu đàm nở, hoa Ưu đàm rụng nhưng hương còn mãi. Hạnh phúc thay cho ai được một lần trở về nhặt cánh Vô ưu!

Tuần báo Giác Ngộ, số Phật đản PL. 2546

Sunday, April 8, 2012

Giới thiệu phần mềm ADONIS để mô hình hóa quy trình kinh doanh


Giới thiệu phần mềm ADONIS để mô hình hóa quy trình kinh doanh

Tôi được biết đến phần mềm ADONIS này cách đây 3 năm, khi tham dự 1 hội thảo về Quản lý Tri thức ở ĐH. Vienna, Áo. Đây là phần mềm được phát triển bởi Bộ môn Công nghệ Tri thức (1 nhánh của khoa CNTT) của ĐH. Vienna. Phiên bản dùng cho giáo dục và hướng dẫn sử dụng của phần mềm này có thể được tải về miễn phí từ trang web sau http://www.adonis-community.com/

Mục tiêu của phần mềm là hỗ trợ 1 bộ công cụ giúp các doanh nghiệp mô hình hóa quy trình kinh doanh của mình (business process modelling). Nhìn bề ngoài, nó cũng tương tự như các phần mềm BPM khác, như: MS. Visio, Power Designer, Rational Rose... Tuy nhiên, ADONIS còn đi xa hơn các phần mềm trên nhờ khả năng phân tích mô hình và mô phỏng kết quả nhằm giúp cho việc tối ưu hóa mô hình đã có. Chằng hạn như, sau khi mô hình hóa, ADONIS còn cho phép người dùng đưa vào mô hình các thông số định lượng về thời gian xử lý của mỗi công đoạn, và sử dụng công cụ phân tích mô hình đính kèm với bộ phần mềm để có thể mô phỏng và đánh giá tính hiệu quả của mô hình. Trên cơ sở kết quả phân tích, người sử dụng có thể tái thiết kế lại quy trình kinh doanh theo hướng giảm thiểu chi phí và tối ưu hóa hiệu quả vận hành. Ngoài ra, nó cũng hỗ trợ các tính năng khác như: liên kết mô hình, thêm các chú thích vào mô hình (notation), nhập & xuất mô hình qua lại giữa các công cụ BPM phổ biến.

Xét về khả năng ứng dụng thực tế, đây là 1 phần mềm khá mạnh mẽ trong việc giúp các doanh nghiệp hiểu được quy trình kinh doanh hiện tại ở đơn vị mình, từ đó có kế hoạch chuẩn hóa quy trình kinh doanh và đề xuất các quy trình cải tiến. Trong bối cảnh Việt Nam, hiện nay các doanh nghiệp quy mô nhỏ chiếm đa số (hơn 90% tổng số doanh nghiệp), trong đó đa phần là chưa có các quy trình kinh doanh chuẩn hóa, mô hình quản lý còn theo phong cách tùy tiện, kiểu gia đình... Chính vì vậy, khi hội nhập với cuộc cạnh tranh toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhanh chóng chuẩn hóa các quy trình kinh doanh của mình nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh. Hơn nữa, việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của các tổ chức ngày càng trở nên 1 nhu cầu bức thiết để đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của các doanh nghiệp, mà trong đó yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của việc ứng dụng HTTT hiện đại là 1 quy trình kinh doanh minh bạch, rõ ràng và hiệu quả.

Theo thống kê của các đơn vị tư vấn triển khai các dự án ERP, nguyên nhân lớn nhất cho việc thất bại khi triển khai dự án ERP ở các DNVN là do thiếu 1 quy trình kinh doanh chuẩn hóa. Chính vì vậy, đa phần các đơn vị tư vấn đều khuyến khích các DN triển khai ERP nên tiến hành chuẩn hóa quy trình kinh doanh trước khi (hoặc song song với) triển khai hệ thống ERP để đảm bảo sự thành công của dự án. Vì vậy, việc tìm hiểu và ứng dụng phần mềm mô hình hóa và phân tích quy trình kinh doanh như ADONIS là rất quan trọng đối với các DNVN có ý định triển khai các dự án tin học hóa hay các HTTT hiện đại như ERP, SCM, CRM...

Ở mức độ vĩ mô, nước ta đang ở một bước chuyển đổi trong việc định hướng mô hình phát triển kinh tế của đất nước. Nhà nước đang kêu gọi tái cấu trúc khối doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng và các hoạt động đầu tư công. Việc ứng dụng 1 giải pháp CNTT như sử dụng phần mềm ADONIS, cũng có thể giúp các nhà hoạch định chính sách phần nào thấy được bức tranh tổng thể của các quy trình, thủ tục, cơ chế hiện tại, từ đó, phân tích bằng các công cụ định lượng, mô phỏng lời giải và tìm ra được phương án tốt nhất cho việc tái cấu trúc nền kinh tế. Đó là kỳ vọng lớn hơn mà cách tiếp cận này hy vọng có thể đóng góp cho quá trình tìm ra 1 mô hình hoạt động tốt hơn cho nền kinh tế quốc gia. Từ đó, góp phần đưa đất nước vượt qua những khó khăn hiện tại và mở ra 1 lộ trình phát triển mới bền vững hơn và nhanh chóng hơn.

SG, tháng 4/2012
Phạm Quốc Trung, PhD.

Monday, March 26, 2012

MÙA TRĂNG



MÙA TRĂNG


PHẠM-TRƯỜNG-LINH
(Kính tặng thầy và anh em trong đêm giỗ tổ).

Trăng thứ nhất ta về đây giỗ tổ
Giữa vườn thầy thơm ngát hương hoa đêm,
Ta thấy trong hồn thẳm của anh em,
Một khát vọng vô cùng vô tận.

Nỗi thao thức đau hơn niềm uất hận,
Rất lung linh huyền ảo khó nên lời
Ta hiểu nhau đến tận đáy lòng người
Khi đèn tắt trăng mờ đêm tịch mịch.

Trăng thứ hai rặng cây xanh bờ liễu
Lối nghìn trùng miên miết đuổi theo ai
Trong sương khuya rớt rớt hột mưa dài
Ta đã thấy một chân trời viễn mộng

Con thưa thầy, giữa đường đời gió lộng
Đêm hôm nay xin đứng dậy làm người
Đêm Lam Sơn rừng núi đang gọi mời
Gió lồng lộng thổi qua hồn quá khứ,

Thưa cha mẹ, đây bắt đầu trang sử
Một mùa trăng kết tự mấy mùa trăng
Đây núi sông bàng bạc bốn nghìn năm
Đang trỗi dậy trong hồn người Bách Việt.

Hoa tư tưởng giữa trời xuân băng tuyết
Đóa tinh anh máu huyết tạo nên hình
Có nghe sông núi chuyển mình
Như hơi thở lúc tự tình nước non.

Wednesday, March 21, 2012

My trip to Kyoto - 14-18/3/2012

Some photos of my trip to Kyoto to attend a Research Collaboration Project at Kyoto University (from Mar 14 to Mar 18, 2012)

Tuesday, February 28, 2012

Cửa Tùng Đôi Cánh Gài

Cửa Tùng Đôi Cánh Gài

Hòa Thượng Nhất Hạnh

--- o0o ---

Khi chàng dũng sĩ về đến chân núi thì trăng cũng vừa lên. Trăng mười chín soi sáng cảnh núi rừng cô tịch. Ánh trăng nhấp nháy đùa giỡn trên lá câỵ Đêm thu mát lạnh. Cảnh vật hình như không có gì đổi thay sau bảy năm xa cách. Cảnh vật tuy không xa lạ, nhưng cũng không thân mật chào đón người cũ từ phương lạ trở về. Chàng dũng sĩ dừng lại ở chân núi, nhìn lên.

Trước mặt chàng, con đường mòn lên núi đã bị đôi cánh cửa tùng khép chặt. Chàng đưa tay cố đẩỵ Nhưng hai cánh cửa kiên cố vẫn im lìm không lay chuyển dưới sức mạnh của đôi cánh tay chàng. Chàng lấy làm lạ. Ngày xưa chẳng bao giờ sư phụ chàng lại cho đóng chặt cửa lên núi như thế nàỵ Chỉ có một con đường đưa tới am sư phụ mà thôi, nhưng bây giờ lại bị đóng chặt.. Hớn hở chàng vỗ tay vào đốc kiếm, phi thân nhảy quạ Nhưng chàng không nhảy qua khỏị Một mãnh lực gì níu lấy thân chàng trở lại, khiến chàng không cất mình lên khỏi hai cánh cửa tùng. Chàng rút gươm định chém rời cánh cửạ Nhưng khi chạm tới cánh cửa, lưỡi gươm văng trở lại như vừa chạm vào thép cứng. Chàng chùn tay, đưa lưỡi gươm lên nhìn. Lưỡi thép sáng loáng dưới ánh trăng. Cánh cửa tùng rắn quá, và hình như đã thu nhận thần lực của sư phụ chàng, nên đã đóng kín đường mòn lại một cách hết sức vững chãi Chàng thở dài cho gươm vào vỏ rồi ngồi phịch xuống tấm đá lớn gần bên, ôm đầu nghĩ ngợị Bảy năm về trước, chàng còn nhớ rõ khi chàng xuống núi, sư phụ chàng đã lặng lẽ nhìn chàng một hồi lâu, không nói năng gì. Cái nhìn của Người tuy dịu dàng nhưng có lẫn đôi chút xót thương. Chàng đã cúi đầu im lặng trước đôi mắt dịu hiền và cái nhìn bao dung của sư phụ. Hồi lâu Người mới thong thả bảo chàng:

-"Ta không thể giữ con ở mãi bên tạ Thế nào con cũng phải xuống núi để hành đạo, để cứu người và giúp đờị Ta cho rằng con có thể ở lại cùng ta trong một thời gian nữa trước khi con rời ta xuống núị Nay con đã muốn xuống thì con cứ xuống. Nhưng con ạ, ta mong con nhớ những điều ta dặn khi con đã đi vào cuộc sống đồng sự và lợi hành." Rồi Người cặn kẻ dặn chàng về những điều chàng nên tránh, và về những điều chàng nên làm. Sau hết, Người từ tốn và dịu dàng để tay trên vai chàng:

- "Con phải nhớ những tiêu chuẩn hành động mà ta đã truyền thọ cho con trong năm sáu năm trời học tập. Chớ bao giờ làm một việc gì có thể gây khổ đau cho mình và cho kẻ khác, trong hiện tại cũng như trong tương laị Hãy tiến bước mạnh dạn trên con đường mà con chắc có thể đưa con và mọi người về nơi giác ngộ. Nên nhớ muôn đời những tiêu chuẩn khổ vui và mê ngộ mà hành Đạo, độ Đờị "Thanh bảo kiếm mà ta đã trao cho con, con hãy sử dụng nó để diệt trừ ma chướng. Hãy xem đó như lưỡi gươm trí tuệ nơi tâm con sẽ dùng để hàng phục mê chướng và si vọng. Nhưng để giúp con, ta cho con thêm một bảo bối này để con có thể thành tựu công quả một cách d- dàng."

Người thong thả lấy trong tay áo ra một chiếc kính nhỏ và đưa cho chàng: "Đây là MÊ ngộ cảnh. Tấm kính này sẽ giúp con biết rõ thiện ác, chính, tà. Có người gọi nó là kính chiếu yêu, bởi vì qua tấm kính này, con có thể thấy được nguyên hình của loài yêu quáị"

Chàng nhận bảo kính và cảm động đến nói không nên lờị Tờ mờ sáng hôm sau, chàng lên bái biệt sư phụ xuống núị Người tiển chàng xuống tận dòng Hổ Khê và thầy trò từ biệt nhau trong tiếng suối róc rách chảỵ Sư phụ đặt bàn tay hiền dịu trên vai chàng nhìn thẳng vào cặp mắt chàng. Và nhìn theo chàng dũng sĩ ra đị Người còn dặn theo: "Nhớ không con, nghèo khổ không thay đổi, vũ lực không khuất phục, giàu sang không mờ ám nhé. Ta ở đây đợi ngày con mang đạt nguyện trở về"

Chàng nhớ lại những ngày đầu tiên xuống núi tiếp xúc với cuộc đờị Chàng đã gặp trên con đường hành đạo bao bộ mặt khác nhau của con người, đã dùng bảo kiếm và mê ngộ cảnh của sư phụ chàng một cách có hiệu quả. Chàng còn nhớ có một lần kia, trên con đường hành đạo, chàng gặp một vị đạo sĩ tay cầm phất trần, đi lại gần chàng và mời chàng về động để bàn tính công việc giúp đờị Đạo sĩ tỏ ra rất hăng hái với việc cứu nhân độ thế và giúp ích mọi loàị Ban đầu, chàng say sưa nghe theo lời đạo sĩ.

Nhưng trong lúc tiếp xúc với vị đạo sĩ, chàng nhận thấy người này có vẻ khả nghị Chàng đưa tay rút mê ngộ cảnh ra chiếụ Trước mắt chàng, không phải là một đạo sĩ mà là một con yêu lớn có hai nanh dài, một cặp sừng trên trán và hai con mắt xanh lè đổ lửạ Chàng vội nhảy lui lại và rút bảo kiếm chém. Yêu quái cố sức kháng cự, nhưng cuối cùng, chàng thắng, và yêu quái hiện nguyên hình quỳ dưới chân chàng xin dung toàn tánh mạng. Chàng bằng lòng tha tội nhưng buộc yêu quái phải trân trọng hứa lui về tu luyện để thoát xác thành người mà không được trá hình đạo sĩ để lừa bịp và tìm cách nuốt sống những kẻ khờ dại dễ tin.

Một lần khác, chàng gặp một vị đường quan, rất có dáng dấp một bậc cha mẹ dân. Vị đường quan râu dài bạc phơ, hứa sẽ trọng dụng chàng và đã chịu khó thức suốt một đêm để bàn với chàng về những điều chánh trị ích quốc lợi dân. Vị đường quan đã tỏ ra mình là một người thiết tha đến hạnh phúc muôn dân, nhưng khi đưa mê ngộ cảnh lên, chàng hoảng hốt nhận đó là một con heo khổng lồ với cặp mắt háu đói, thèm khát, vô cùng khủng khiếp. Chàng đứng dậy rút gươm chém. Yêu quái bỏ chạy nhưng chàng đã nhảy ra đứng chận giữa cửa công đường và hét bảo nó hiện nguyên hình. Con heo kinh khiếp hiện hình quỳ dưới chân chàng cầu xin tha tội và hứa sẽ về tu luyện tinh tấn, thoát xác biếng lười, không còn dám trá hình để rúc rỉa xương thịt người dân vô tộị

Có một hôm, đi ngang qua chợ, chàng thấy thiên hạ già trẻ trai gái xúm quanh ngôi hàng sách. Người đang bày bán sách và tranh cho mọi người là một cô gái mặt hoa da phấn, trên miệng luôn luôn sẵn có một nụ cườị Thiên hạ trầm trồ khen ngợi tranh vẽ và thi nhau mua sách. Bên cạnh cô ta lại có một cô gái khác, cũng mặt hoa da phấn, tay ôm đàn, miệng cất tiếng hát khiến mọi người đã mua sách phải mê mẩn tâm thần không muốn ra khỏi cửa hàng. Thật là một cảnh thái bình nên thợ Chàng cũng ngây ngất đứng nghe, và cuối cùng chàng lại gần cầm lên một bức họạ Màu sắc làm chàng choáng ngợp, nhưng qua nội dung chàng thấy thoáng gợn trong tâm linh một ít nghi ngờ. Đưa mê ngộ cảnh lên nhìn, chàng hốt hoảng thấy nguyên hình hai con rắn độc, phun nọc phè phè. Chàng vội gạt mọi người ra, rút bảo kiếm, quát lên: - Nghiệt súc! đừng phun nọc độc hại ngườị Mọi người chạy tán loạn. Hai con rắn độc văng mình tớị Nhưng trước thần lực của lưỡi bảo kiếm, cuối cùng đành phải khoanh tròn dưới gối chàng van xin thứ tộị Chàng dùng bảo kiếm cắt đứt nọc độc, đốt cháy cửa hàng và tha cho yêu súc, buộc cả hai phải hứa trở về núi tu luyện cho thoát kiếp ngậm nọc phun ngườị Cứ thế, chàng đã sử dụng bảo kiếm và mê ngộ cảnh theo đúng lời sư phụ dặn để cứu người và giúp đờị .

Chàng đã sống miệt mài với nhiệm vụ. Đã từ lâu chàng vẫn tự cho rằng chàng là người dũng sĩ cần thiết cho cuộc đờị Cuộc đời không thể vắng bóng chàng. Chàng đã trà trộn trong cuộc sống, có khi thành công, nhưng cũng nhiều khi thất bạị Đối diện với cuộc sống đầy mưu mô gian trá, nhiều lúc chàng phải uốn mình, linh động theo hoàn cảnh để chinh phục và chiến thắng. Có lúc chàng say sưa miệt mài trong công việc. Chàng cảm thấy thích thú khi hành động. Có khi chàng say mê quên cả ăn cả nghỉ, vì một sự theo đuổi mà chàng cảm thấy vì vui thích mà thực hiện hơn là ý thức rằng mình cần hoạt động để mà phụng sự. Thời gian trôi cứ như thế cho đến bảy năm. Một hôm trong lúc ngồi nghỉ bên một dòng sông, nhìn dòng nước lặng lẽ trôi, chàng giật mình thấy đã từ lâu, gần hai năm nay, chàng không dùng đến mê ngộ cảnh. Chàng không dùng, không phải là chàng quên rằng mình có ngộ cảnh, mà chỉ vì chàng thấy không thích dùng. Chàng nhớ lại trước đây đã có một thời chàng dùng mê ngộ cảnh một cách mi-n cưỡng. Chàng nhớ lại những ngày mới xuống núi ấy, chàng đã chiến đấu rất hăng hái khi thấy nguyên hình những yêu quái xuất hiện trên mê ngộ cảnh. Chàng cũng cảm thấy hân hoan vô hạn khi soi thấy trên mê ngộ cảnh hình dáng các bậc hiền nhân. Nhưng trong thời gian trước đây, một cái gì khác lạ đã đến trong tâm hồn chàng, đến lúc nào chàng không nhận rõ. Chàng đã không thiết tha lắm khi nhìn thấy hình bóng một bậc hiền nhân, mà cũng không giận dữ lắm khi thấy một bóng hình yêu quáị Trong bóng hình yêu quái đó, đôi khi chàng lại nhận ra một vài nét hơi quen thuộc,và lưỡi bảo kiếm đã có thờ ơ khi có những bóng hình yêu quái xuất hiện trước kính thần.

Cho đến những ngày gần đây, chàng không dùng mê ngộ cảnh nữạ Chiếc kính vẫn nằm trong túi áo chàng, nhưng đã từ lâu không còn được sử dụng. Chàng lấy làm lạ và đã nói nhiều lần định quay về hỏi sư phụ. Nhưng đã ba tháng qua, bận bịu những gì không đâu, chàng chưa có thể trở về. Mãi cho đến hôm mười hai tháng tám trước đây, đi qua một rừng mai hoa nở, thấy sắc hoa trắng như tuyết lấp lánh dưới ánh trăng thu, nhớ đến những ngày thơ ấu bên rừng mai già học tập dưới chân thầy, chàng mới quyết định trở về. Đường về sao chàng thấy xa quá. Bảy ngày trèo non lặn suối mới về tới được chỗ cũ.

Nhưng đến chân núi thì trời đã tốị Trăng cũng vừa lên và hai cánh cửa tùng cũng đã khép chặt lối mòn. Chàng đành phải đợị Buổi sáng, người sư đệ của chàng thế nào cũng phải xuống suối múc nước, và như vậy sẽ mở cửa cho chàng. Trăng đã lên tới quá đỉnh đầu, ánh trăng vằng vặc chiếu xuống rừng núi âm ụ Trời càng về khuya càng lạnh. Chàng lại rút kiếm ra nhìn. Ánh trăng lại lấp lánh trên lưỡi kiếm. Chàng lại tra kiếm vào vỏ. Trên mặt chàng thoáng nét ưu tư sầu muộn. Chàng đứng dậỵ Trăng sáng quá. Núi rừng vẫn u tịch và lạnh lùng. Chàng ngồi xuống phiến đá chờ đợị Quãng đời bảy năm qua lại trở về trong trí óc chàng. Trăng dần dần về phía núi xạ Ngàn sao lấp lánh linh động hơn, và cuối cùng bắt đầu mờ nhạt. Phương đông đã nhuộm dần ánh sáng mờ mờ.

Đường viền ngọn núi đã nổi dần trên vầng sáng nhạt. Bình minh sắp về. Chàng nghe tiếng lá khô xào xạc trên núị Ngửng lên chàng thấy một bóng người mờ nhạt từ trên đi xuống. Chắc hẳn là người sư đệ của chàng. Trời đang tối quá chàng nhìn không rõ, chỉ thấy hình bóng.

Nhưng chắc chắn đó là người sư đệ, bởi vì tay có cầm tịnh bình. Chàng đứng dậỵ Bóng người tiến xuống và khi đến gần cánh cửa thì cũng vừa nhận ra được chàng dũng sĩ. - "Đại huynh"

- Sư đệ! - Đại huynh về bao giờ thế ? - Ta về lúc trăng mới lên và phải đợi cả đêm dưới nàỵ.. Tại sao sư phụ lại cho đóng bít lối lên như thế ? Người sư đệ mỉm cười đưa nhẹ tay mở cửạ Hai cánh cửa tùng bật ra một cách d- dàng. Bước ra nắm lấy tay chàng và nhìn chàng tận mặt. -"Đại huynh ở một đêm giữa trời chắc lạnh lắm. Sương phủ ướt áo thế này mà, thôi để tiểu đệ phủi bớt chọ Trước kia đệ thường ở dưới núi hái rau nhặt củi và luôn tiện canh chừng người lên núị Lâu lâu mới có một người lên núị Nếu tiểu đệ thấy ai đáng lên hầu sư phụ thì tiểu đệ cho lên, nếu họ không đáng lên thì em lẫn tránh để cho họ lạc đường. Sư huynh biết rằng sư phụ không bao giờ muốn tiếp những người lên núi với tâm niệm không lành. Độ này tiểu đệ bận tập luyện luôn mà sư phụ cũng bận ngồi tĩnh tọa trong thạch động nên người dặn cho đệ khép cửa chắng ngang lối lên dưới nàỵ Sư phụ có trao phép lạ khiến cho cửa tự động mở ra khi các bậc hiền nhân đến. Nhưng khi những kẻ phàm tục lên thì cửa cứ đóng chặt không thể nào vượt qua được. Nhất là khi kẻ ấy có yêu khí thì đừng mong lên núị"

Chàng dũng sĩ cau mày: - "Nhưng không lẽ ta mà lại là yêu quáỉ Sao cửa lại đóng chặt?" Người sư đệ cười lớn: - "Vâng đại huynh sao lại là yêu quái được! Đệ cũng quên đi mất là tại sao cửa lại đóng. Nhưng bây giờ dù sao thì đại huynh cũng lên núi được rồi cơ mà, vì cửa đã mở. Nhưng đại huynh đợi em chút nhé. Để tiểu đệ xuống suối múc nước rồi cùng lên một thể. Hay đại huynh xuống suối với đệ cho vuị Cười lên chứ, đại huynh giận ai mà nét mặt trông khó đăm đăm như vậỷ"

Hai anh em cười vang. Chàng dũng sĩ đi theo người sư đệ xuống suốị Mặt trời vẫn chưa lên, nhưng phương đông đã rạng. Hai người đã có thể nhìn rõ mặt nhaụ Mặt suối lặng trong, in màu hồng của rạng đông. Bóng hai người đứng song song in hình trên mặt suốị Chàng dũng sĩ trong bộ võ phục hiên ngang, lưng đeo trường kiếm. Người sư đệ trong y phục tiểu đồng hòa nhã, tay cầm tịnh bình. Hai người cùng nhìn bóng mình in trên mặt nước mỉm cườị Một con bọ nước nhảy, làm mặt nước hồng gợn nhẹ và bóng hai người rung rung theo làn sóng nước gợn. "Bóng chúng ta trên mặt nước đẹp quá nhỉ! Nếu bây giờ tiểu đệ múc nước thì sóng dậy và bóng tan mất. À này đại huynh "mê ngộ cảnh" sư phụ cho đại huynh còn giữ đó không?" Chàng dũng sĩ cho tay vào túi trả lời:

- Còn đây

- Tại sao chúng ta không đem ra chiếu hình chúng ta xem nào.

Chàng sực nhớ là từ lâu chàng chưa chiếu mê thử trước hình bóng mình. Chàng lấy kính thần ra, lau bụi vào vạt áo, chiếu trên mặt nước. Hai anh em châu đầu vào mặt kính.

Nhưng bỗng cả hai người cùng hét lên một tiếng kinh hoàng, khủng khiếp, và tiếp theo đó chàng dũng sĩ ngã quỵ trên bờ suối bất tỉnh. Tiếng thét kinh khủng làm chấn động cả núi rừng hoang dại . Một con nai đang uống nước phía trên dòng hoảng hốt đưa đầu lên nhìn, ngơ ngác kinh sợ. Người sư đệ vừa trông thấy trong kính thần, hình bóng của mình đứng bên cạnh hình bóng một con yêu to lớn với đôi mắt tối sâu như hai miệng giếng không đáy, hai chiếc răng dài quập sâu vào chiếc càm vuông, trên một khuôn mặt xám ngoẹt như gà cắt tiết.

Người sư đệ rùng mình dụi mắt nhìn lại, trên bờ suối đá xanh, chàng dũng sĩ vẫn nằm ngã lăn bất tỉnh, trên mặt vẫn còn in rõ nét kinh hoàng, đau khổ hiện hình một cách thảm hại trên con người đã từng xông pha lăn lộn bảy năm trong cuộc đời đầy cát bụi.

Người sư đệ đến ôm lấy chàng dũng sĩ và lấy nước suối vã vào mặt chàng. Vài phút sau, chàng tỉnh dậy, nét mặt vô cùng bi thảm. Hình bóng trên mê ngộ cảnh hiện ra bất ngờ quá và ý thức tự giác trong nháy mắt đã làm cho chàng ngả quỵ. Chàng đã mất hết nghị lực, mất hết sự sống. Tứ chi chàng rời rã, chàng không thể đứng dậy được nữạ Một chân quỵ xuống cát, người sư đệ dịu dàng nâng chàng ngồi dậỵ Nét thiểu não và khổ đau còn in rõ trên khuôn mặt chàng. - "Thôi, đại huynh vui lên. Chúng ta sẽ lại lên núị"

Giọng nói của người sư đệ êm như một hơi gió thoảng, nhẹ như một tiếng thì thầm. Nhưng chàng lắc đầu một cách thất vọng. Chàng không còn muốn sống. Đau khổ đã làm chàng thảm não và tâm hồn chàng vừa bị tàn phá tang thương như mặt đất sau cơn phong vũ điên cuồng. Chàng không còn dám có ý tưởng lên núi để nhìn mặt sư phụ. Người sư đệ vuốt tóc chàng, an ủi: "Thầy thương anh lắm. Không sao đâu, đại huynh sẽ ở mãi bên thầy (vỗ về). Đại huynh sẽ sống bên em như những ngày xưa êm đẹp cũ (khóc). Em không ngờ bao nhiêu năm dưới núi đã tàn hại anh đến thế."

Và người ta thấy trên con đường mòn cheo leo lên núi, bóng người sư đệ lần từng bước dìu chàng dũng sĩ trở lên động. Trời vẫn còn chưa sáng hẳn, bóng hai người in trên màn sương mỏng nhẹ của núi rừng buổi sáng. Tia nắng đầu tiên soi rõ dáng điệu thiểu não rời rã của chàng dũng sĩ bên cạnh dáng điệu diệu dàng từ hòa của người sư đệ. Mặt trời đã nhô khỏi đỉnh núi xa.

(Nguồn: Sưu tầm từ Quangduc.com)

Tuesday, February 14, 2012

ĐÓA HOA VÔ THƯỜNG



ĐÓA HOA VÔ THƯỜNG

Em là một đóa vô thường
Nở ra xoa dịu đau thương cuộc đời
Tình yêu – quý lắm ai ơi
Hãy cùng trân trọng, muôn lời yêu thương
Đóa hoa nở giữa đoạn trường
Lung linh ánh sáng, tỏa hương cho đời
Dẫu rằng, nở để tàn thôi
Vẫn bình yên nở, muôn đời không phai
Đóa vô thường của hôm nay
Vẫn mang hạt giống của ngày xa xưa
Vô thường sớm nắng chiều mưa
Tên em – vẫn thế ngàn xưa đến giờ
Nhắc người chớ có ơ hờ
Lãng trôi ngày tháng vật vờ vô tri
Dẫu đời thay đổi biến di
Vô thường còn đó khắc ghi trong lòng
Tình yêu tỏa ngát hư không
Hãy gìn giữ mãi tấm lòng yêu thương
Biết rằng đời vốn vô thường
Tình yêu còn mãi - ngát hương cuộc đời…

PQT

Saturday, January 28, 2012

Khai bút đầu năm

Nhân dịp Xuân mới, xin chúc mọi người vạn sự tốt lành, thân tâm an lạc, gặp nhiều may mắn và tràn đầy hạnh phúc! Xin có đôi dòng Thơ mừng Xuân mới gọi là khai bút đầu năm, để mọi người cùng đọc cho vui mấy ngày Xuân.

Mừng Xuân Nhâm Thìn

"Rồng tiềm phục bốn phương trời ẩn hiện
Thần Kim Quy phiêu dạt bãi Thanh Giang
Lúc hồn nước phiêu linh trời lãng đãng
Buổi Xuân về hò hẹn phút đăng quang" (*)

Xuân đã tới, rồng thiêng đang chuyển động
Gió tự do đang thổi bốn phương trời,
Hồn phục hưng đang réo gọi bao người
Đàn chim Việt hãy dang đôi cánh rộng...

Bay khắp trời xua đi bao ác mộng
Xiết tay nhau, kìa lịch sử chờ trông
Hãy sống dậy tinh thần nòi Bách Việt
Hỡi lịch sử bốn ngàn năm lẫm liệt.

Hãy đứng lên những người con tuấn kiệt
Cùng xoá tan những oan nghiệt yêu tà,
Để gió Xuân về làm mát lòng ta
Và sưởi ấm những ước mơ mãnh liệt...

Xuân về cất tiếng gọi mời
Muôn đàn chim Việt đáp lời núi sông,
Cùng nhau trên dưới một lòng,
Rồng thiêng cất cánh, ước mong vuông tròn,
Mùa Xuân tô thắm nước non
Tương lai tươi sáng, vẹn toàn quê hương...

PQT
Xuân Nhâm Thìn - 2012

(*) Thơ Phạm Trường Linh

Saturday, January 14, 2012

XUÂN NHỚ BỐ


XUÂN NHỚ BỐ

Bố ơi, xuân lại đến rồi,
Ngước nhìn di ảnh lòng bồi hồi đau
Con về chưa được bao lâu
Bố ra đi, để nỗi sầu vấn vương
Xuân về, mai rực nẻo đường
Nhà nhà náo nức, phố phường đông vui
Nhà mình vắng Bố, kém vui
Bánh chưng ai nấu? chuyện vui ai cười?
Cửa nhà vắng vẻ, Bố ơi!
Tách trà còn đó, Bố thời ở đâu?
Giao thừa, nhớ cảnh cùng nhau
Thắp hương cúng khấn, nguyện cầu an vui
Tết này, Bố đã xa rồi
Đến chùa, con nguyện Bố thời bình an
Gia đình hạnh phúc an khang
Xuân về mong khắp thế gian an lành
Mùa xuân Di Lặc… đến nhanh
Mai vàng nở thắm, đầy cành lộc xuân…

14-1-2012

Wednesday, January 11, 2012

Vai trò và trách nhiệm

Đầu năm đọc sách Phật để tâm hồn an tịnh và lòng nhẹ nhàng hơn. Dưới đây là 1 đoạn viết về vai trò và trách nhiệm của cá nhân trong xã hội theo tinh thần Phật giáo. Bài viết cho thấy khái niệm Tự Do là rất quan trọng trong xã hội hiện đại, và cả trong việc tu tập, nhưng cần hiểu cho đúng nghĩa của tự do cá nhân trong mỗi tương quan với vai trò và trách nhiệm của mỗi người trong xã hội để có được sự an bình trong tâm hồn. Mời mọi người cùng đọc.

_______________________

Vai trò và trách nhiệm của cá nhân trong xã hội

Trong 1 bài giảng đặc biệt cho Phật tử Sigalaka, Đức Phật chỉ ra những giá trị nền tảng hình thành nên cấu trúc vững chắc của các mối quan hệ xã hội. Một số trong các mối quan hệ thường gặp trong cuộc sống đã được đề cập, như : quan hệ với cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn hữu, đồng nghiệp và các vị thầy tâm linh. Mỗi vai trò đó đều chứa đựng những trách nhiệm và bổn phận cụ thể, mà theo như bài giảng đã nêu rõ, chúng cần phải được nhận ra và tôn trọng để duy trì an bình trong cuộc sống.

Trong thời hiện đại, chúng ta thấy có 1 phong trào hướng đến việc gia tăng nhận thức về quyền con người. Mối quan tâm về tự do cá nhân này đã làm nổi bật nhiều sự áp bức và bất công trên toàn thế giới. Tuy nhiên, trong những xã hội khá giả hơn, hiện nay đang có xu hướng quá nhấn mạnh đến vị trí cá nhân, điều này có thể được phóng đại như là một cái nhìn sai lầm về tự do. Chúng ta thường khẳng định rằng điều chúng ta tin tưởng là các quyền căn bản để mưu cầu an vui, thể hiện cảm xúc và hành động theo mong muốn của ta – nhưng nếu nhận thức mình như là 1 phần của cộng đồng trở nên bị xem nhẹ, hay mất đi, thì sẽ dẫn đến những kết quả tai hại dưới dạng sự cằn cỗi về tình cảm hay tinh thần nào đó. Rất nhiều người chiến đấu vất vả để giải phóng họ khỏi bất hạnh đã bao bọc lấy tự ngã của họ.

Trong truyền thống Phật giáo, để tôn trọng nhiều quy tắc khác nhau của gia đình, quan hệ hôn nhân và các mối quan hệ khác không đơn giản có nghĩa là tuân theo những tiêu chuẩn xa xưa hay các tập tục văn hóa đã lỗi thời. Sự thật là trong rất nhiều bài giảng của Phật giáo đều nhằm tăng trưởng chánh niệm tỉnh thức về mối quan hệ này, và được phát triển thành tinh thần tương tức. Bởi nếu chúng ta sẳn lòng chấp nhận và làm việc trong giới hạn của các mối quan hệ xã hội, chúng có thể cung cấp không gian hay điểm tập trung để chúng ta vượt qua.

Mặc dù cảm hứng tinh thần của chúng ta bao gồm những l‎ý tưởng trừu tượng hoặc hứng khởi về tình yêu và hòa bình, thực tập thực tế phải bắt đầu với những người xung quanh trong cuộc sống của ta. Nếu chúng ta đơn giản xem các bổn phận xã hội như là những giới hạn hay là thứ không cần thiết, hay miễn cưỡng trong các mối quan hệ của chúng ta, thì sự tìm kiếm tự do của chúng ta đã không hoàn toàn đặt nền tảng trên kinh nghiệm thông thường của con người, và chúng ta không thấy được sự thật. Điều này có thể hướng năng lượng của chúng ta ra khỏi bản chất tự nhiên của con người là tham dự thật sự vào tiến trình sống.

Khéo léo thiết lập mối quan hệ trong phạm vi định chế xã hội vì vậy là một cơ hội để từ bỏ nỗ lực điều chỉnh thế giới xung quanh, mà thay vào đó là mở ra và nhận thức rằng chúng ta là 1 phần của thực tại lớn hơn.

(Nguồn: sưu tầm từ Internet)