Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Tuesday, February 28, 2012

Cửa Tùng Đôi Cánh Gài

Cửa Tùng Đôi Cánh Gài

Hòa Thượng Nhất Hạnh

--- o0o ---

Khi chàng dũng sĩ về đến chân núi thì trăng cũng vừa lên. Trăng mười chín soi sáng cảnh núi rừng cô tịch. Ánh trăng nhấp nháy đùa giỡn trên lá câỵ Đêm thu mát lạnh. Cảnh vật hình như không có gì đổi thay sau bảy năm xa cách. Cảnh vật tuy không xa lạ, nhưng cũng không thân mật chào đón người cũ từ phương lạ trở về. Chàng dũng sĩ dừng lại ở chân núi, nhìn lên.

Trước mặt chàng, con đường mòn lên núi đã bị đôi cánh cửa tùng khép chặt. Chàng đưa tay cố đẩỵ Nhưng hai cánh cửa kiên cố vẫn im lìm không lay chuyển dưới sức mạnh của đôi cánh tay chàng. Chàng lấy làm lạ. Ngày xưa chẳng bao giờ sư phụ chàng lại cho đóng chặt cửa lên núi như thế nàỵ Chỉ có một con đường đưa tới am sư phụ mà thôi, nhưng bây giờ lại bị đóng chặt.. Hớn hở chàng vỗ tay vào đốc kiếm, phi thân nhảy quạ Nhưng chàng không nhảy qua khỏị Một mãnh lực gì níu lấy thân chàng trở lại, khiến chàng không cất mình lên khỏi hai cánh cửa tùng. Chàng rút gươm định chém rời cánh cửạ Nhưng khi chạm tới cánh cửa, lưỡi gươm văng trở lại như vừa chạm vào thép cứng. Chàng chùn tay, đưa lưỡi gươm lên nhìn. Lưỡi thép sáng loáng dưới ánh trăng. Cánh cửa tùng rắn quá, và hình như đã thu nhận thần lực của sư phụ chàng, nên đã đóng kín đường mòn lại một cách hết sức vững chãi Chàng thở dài cho gươm vào vỏ rồi ngồi phịch xuống tấm đá lớn gần bên, ôm đầu nghĩ ngợị Bảy năm về trước, chàng còn nhớ rõ khi chàng xuống núi, sư phụ chàng đã lặng lẽ nhìn chàng một hồi lâu, không nói năng gì. Cái nhìn của Người tuy dịu dàng nhưng có lẫn đôi chút xót thương. Chàng đã cúi đầu im lặng trước đôi mắt dịu hiền và cái nhìn bao dung của sư phụ. Hồi lâu Người mới thong thả bảo chàng:

-"Ta không thể giữ con ở mãi bên tạ Thế nào con cũng phải xuống núi để hành đạo, để cứu người và giúp đờị Ta cho rằng con có thể ở lại cùng ta trong một thời gian nữa trước khi con rời ta xuống núị Nay con đã muốn xuống thì con cứ xuống. Nhưng con ạ, ta mong con nhớ những điều ta dặn khi con đã đi vào cuộc sống đồng sự và lợi hành." Rồi Người cặn kẻ dặn chàng về những điều chàng nên tránh, và về những điều chàng nên làm. Sau hết, Người từ tốn và dịu dàng để tay trên vai chàng:

- "Con phải nhớ những tiêu chuẩn hành động mà ta đã truyền thọ cho con trong năm sáu năm trời học tập. Chớ bao giờ làm một việc gì có thể gây khổ đau cho mình và cho kẻ khác, trong hiện tại cũng như trong tương laị Hãy tiến bước mạnh dạn trên con đường mà con chắc có thể đưa con và mọi người về nơi giác ngộ. Nên nhớ muôn đời những tiêu chuẩn khổ vui và mê ngộ mà hành Đạo, độ Đờị "Thanh bảo kiếm mà ta đã trao cho con, con hãy sử dụng nó để diệt trừ ma chướng. Hãy xem đó như lưỡi gươm trí tuệ nơi tâm con sẽ dùng để hàng phục mê chướng và si vọng. Nhưng để giúp con, ta cho con thêm một bảo bối này để con có thể thành tựu công quả một cách d- dàng."

Người thong thả lấy trong tay áo ra một chiếc kính nhỏ và đưa cho chàng: "Đây là MÊ ngộ cảnh. Tấm kính này sẽ giúp con biết rõ thiện ác, chính, tà. Có người gọi nó là kính chiếu yêu, bởi vì qua tấm kính này, con có thể thấy được nguyên hình của loài yêu quáị"

Chàng nhận bảo kính và cảm động đến nói không nên lờị Tờ mờ sáng hôm sau, chàng lên bái biệt sư phụ xuống núị Người tiển chàng xuống tận dòng Hổ Khê và thầy trò từ biệt nhau trong tiếng suối róc rách chảỵ Sư phụ đặt bàn tay hiền dịu trên vai chàng nhìn thẳng vào cặp mắt chàng. Và nhìn theo chàng dũng sĩ ra đị Người còn dặn theo: "Nhớ không con, nghèo khổ không thay đổi, vũ lực không khuất phục, giàu sang không mờ ám nhé. Ta ở đây đợi ngày con mang đạt nguyện trở về"

Chàng nhớ lại những ngày đầu tiên xuống núi tiếp xúc với cuộc đờị Chàng đã gặp trên con đường hành đạo bao bộ mặt khác nhau của con người, đã dùng bảo kiếm và mê ngộ cảnh của sư phụ chàng một cách có hiệu quả. Chàng còn nhớ có một lần kia, trên con đường hành đạo, chàng gặp một vị đạo sĩ tay cầm phất trần, đi lại gần chàng và mời chàng về động để bàn tính công việc giúp đờị Đạo sĩ tỏ ra rất hăng hái với việc cứu nhân độ thế và giúp ích mọi loàị Ban đầu, chàng say sưa nghe theo lời đạo sĩ.

Nhưng trong lúc tiếp xúc với vị đạo sĩ, chàng nhận thấy người này có vẻ khả nghị Chàng đưa tay rút mê ngộ cảnh ra chiếụ Trước mắt chàng, không phải là một đạo sĩ mà là một con yêu lớn có hai nanh dài, một cặp sừng trên trán và hai con mắt xanh lè đổ lửạ Chàng vội nhảy lui lại và rút bảo kiếm chém. Yêu quái cố sức kháng cự, nhưng cuối cùng, chàng thắng, và yêu quái hiện nguyên hình quỳ dưới chân chàng xin dung toàn tánh mạng. Chàng bằng lòng tha tội nhưng buộc yêu quái phải trân trọng hứa lui về tu luyện để thoát xác thành người mà không được trá hình đạo sĩ để lừa bịp và tìm cách nuốt sống những kẻ khờ dại dễ tin.

Một lần khác, chàng gặp một vị đường quan, rất có dáng dấp một bậc cha mẹ dân. Vị đường quan râu dài bạc phơ, hứa sẽ trọng dụng chàng và đã chịu khó thức suốt một đêm để bàn với chàng về những điều chánh trị ích quốc lợi dân. Vị đường quan đã tỏ ra mình là một người thiết tha đến hạnh phúc muôn dân, nhưng khi đưa mê ngộ cảnh lên, chàng hoảng hốt nhận đó là một con heo khổng lồ với cặp mắt háu đói, thèm khát, vô cùng khủng khiếp. Chàng đứng dậy rút gươm chém. Yêu quái bỏ chạy nhưng chàng đã nhảy ra đứng chận giữa cửa công đường và hét bảo nó hiện nguyên hình. Con heo kinh khiếp hiện hình quỳ dưới chân chàng cầu xin tha tội và hứa sẽ về tu luyện tinh tấn, thoát xác biếng lười, không còn dám trá hình để rúc rỉa xương thịt người dân vô tộị

Có một hôm, đi ngang qua chợ, chàng thấy thiên hạ già trẻ trai gái xúm quanh ngôi hàng sách. Người đang bày bán sách và tranh cho mọi người là một cô gái mặt hoa da phấn, trên miệng luôn luôn sẵn có một nụ cườị Thiên hạ trầm trồ khen ngợi tranh vẽ và thi nhau mua sách. Bên cạnh cô ta lại có một cô gái khác, cũng mặt hoa da phấn, tay ôm đàn, miệng cất tiếng hát khiến mọi người đã mua sách phải mê mẩn tâm thần không muốn ra khỏi cửa hàng. Thật là một cảnh thái bình nên thợ Chàng cũng ngây ngất đứng nghe, và cuối cùng chàng lại gần cầm lên một bức họạ Màu sắc làm chàng choáng ngợp, nhưng qua nội dung chàng thấy thoáng gợn trong tâm linh một ít nghi ngờ. Đưa mê ngộ cảnh lên nhìn, chàng hốt hoảng thấy nguyên hình hai con rắn độc, phun nọc phè phè. Chàng vội gạt mọi người ra, rút bảo kiếm, quát lên: - Nghiệt súc! đừng phun nọc độc hại ngườị Mọi người chạy tán loạn. Hai con rắn độc văng mình tớị Nhưng trước thần lực của lưỡi bảo kiếm, cuối cùng đành phải khoanh tròn dưới gối chàng van xin thứ tộị Chàng dùng bảo kiếm cắt đứt nọc độc, đốt cháy cửa hàng và tha cho yêu súc, buộc cả hai phải hứa trở về núi tu luyện cho thoát kiếp ngậm nọc phun ngườị Cứ thế, chàng đã sử dụng bảo kiếm và mê ngộ cảnh theo đúng lời sư phụ dặn để cứu người và giúp đờị .

Chàng đã sống miệt mài với nhiệm vụ. Đã từ lâu chàng vẫn tự cho rằng chàng là người dũng sĩ cần thiết cho cuộc đờị Cuộc đời không thể vắng bóng chàng. Chàng đã trà trộn trong cuộc sống, có khi thành công, nhưng cũng nhiều khi thất bạị Đối diện với cuộc sống đầy mưu mô gian trá, nhiều lúc chàng phải uốn mình, linh động theo hoàn cảnh để chinh phục và chiến thắng. Có lúc chàng say sưa miệt mài trong công việc. Chàng cảm thấy thích thú khi hành động. Có khi chàng say mê quên cả ăn cả nghỉ, vì một sự theo đuổi mà chàng cảm thấy vì vui thích mà thực hiện hơn là ý thức rằng mình cần hoạt động để mà phụng sự. Thời gian trôi cứ như thế cho đến bảy năm. Một hôm trong lúc ngồi nghỉ bên một dòng sông, nhìn dòng nước lặng lẽ trôi, chàng giật mình thấy đã từ lâu, gần hai năm nay, chàng không dùng đến mê ngộ cảnh. Chàng không dùng, không phải là chàng quên rằng mình có ngộ cảnh, mà chỉ vì chàng thấy không thích dùng. Chàng nhớ lại trước đây đã có một thời chàng dùng mê ngộ cảnh một cách mi-n cưỡng. Chàng nhớ lại những ngày mới xuống núi ấy, chàng đã chiến đấu rất hăng hái khi thấy nguyên hình những yêu quái xuất hiện trên mê ngộ cảnh. Chàng cũng cảm thấy hân hoan vô hạn khi soi thấy trên mê ngộ cảnh hình dáng các bậc hiền nhân. Nhưng trong thời gian trước đây, một cái gì khác lạ đã đến trong tâm hồn chàng, đến lúc nào chàng không nhận rõ. Chàng đã không thiết tha lắm khi nhìn thấy hình bóng một bậc hiền nhân, mà cũng không giận dữ lắm khi thấy một bóng hình yêu quáị Trong bóng hình yêu quái đó, đôi khi chàng lại nhận ra một vài nét hơi quen thuộc,và lưỡi bảo kiếm đã có thờ ơ khi có những bóng hình yêu quái xuất hiện trước kính thần.

Cho đến những ngày gần đây, chàng không dùng mê ngộ cảnh nữạ Chiếc kính vẫn nằm trong túi áo chàng, nhưng đã từ lâu không còn được sử dụng. Chàng lấy làm lạ và đã nói nhiều lần định quay về hỏi sư phụ. Nhưng đã ba tháng qua, bận bịu những gì không đâu, chàng chưa có thể trở về. Mãi cho đến hôm mười hai tháng tám trước đây, đi qua một rừng mai hoa nở, thấy sắc hoa trắng như tuyết lấp lánh dưới ánh trăng thu, nhớ đến những ngày thơ ấu bên rừng mai già học tập dưới chân thầy, chàng mới quyết định trở về. Đường về sao chàng thấy xa quá. Bảy ngày trèo non lặn suối mới về tới được chỗ cũ.

Nhưng đến chân núi thì trời đã tốị Trăng cũng vừa lên và hai cánh cửa tùng cũng đã khép chặt lối mòn. Chàng đành phải đợị Buổi sáng, người sư đệ của chàng thế nào cũng phải xuống suối múc nước, và như vậy sẽ mở cửa cho chàng. Trăng đã lên tới quá đỉnh đầu, ánh trăng vằng vặc chiếu xuống rừng núi âm ụ Trời càng về khuya càng lạnh. Chàng lại rút kiếm ra nhìn. Ánh trăng lại lấp lánh trên lưỡi kiếm. Chàng lại tra kiếm vào vỏ. Trên mặt chàng thoáng nét ưu tư sầu muộn. Chàng đứng dậỵ Trăng sáng quá. Núi rừng vẫn u tịch và lạnh lùng. Chàng ngồi xuống phiến đá chờ đợị Quãng đời bảy năm qua lại trở về trong trí óc chàng. Trăng dần dần về phía núi xạ Ngàn sao lấp lánh linh động hơn, và cuối cùng bắt đầu mờ nhạt. Phương đông đã nhuộm dần ánh sáng mờ mờ.

Đường viền ngọn núi đã nổi dần trên vầng sáng nhạt. Bình minh sắp về. Chàng nghe tiếng lá khô xào xạc trên núị Ngửng lên chàng thấy một bóng người mờ nhạt từ trên đi xuống. Chắc hẳn là người sư đệ của chàng. Trời đang tối quá chàng nhìn không rõ, chỉ thấy hình bóng.

Nhưng chắc chắn đó là người sư đệ, bởi vì tay có cầm tịnh bình. Chàng đứng dậỵ Bóng người tiến xuống và khi đến gần cánh cửa thì cũng vừa nhận ra được chàng dũng sĩ. - "Đại huynh"

- Sư đệ! - Đại huynh về bao giờ thế ? - Ta về lúc trăng mới lên và phải đợi cả đêm dưới nàỵ.. Tại sao sư phụ lại cho đóng bít lối lên như thế ? Người sư đệ mỉm cười đưa nhẹ tay mở cửạ Hai cánh cửa tùng bật ra một cách d- dàng. Bước ra nắm lấy tay chàng và nhìn chàng tận mặt. -"Đại huynh ở một đêm giữa trời chắc lạnh lắm. Sương phủ ướt áo thế này mà, thôi để tiểu đệ phủi bớt chọ Trước kia đệ thường ở dưới núi hái rau nhặt củi và luôn tiện canh chừng người lên núị Lâu lâu mới có một người lên núị Nếu tiểu đệ thấy ai đáng lên hầu sư phụ thì tiểu đệ cho lên, nếu họ không đáng lên thì em lẫn tránh để cho họ lạc đường. Sư huynh biết rằng sư phụ không bao giờ muốn tiếp những người lên núi với tâm niệm không lành. Độ này tiểu đệ bận tập luyện luôn mà sư phụ cũng bận ngồi tĩnh tọa trong thạch động nên người dặn cho đệ khép cửa chắng ngang lối lên dưới nàỵ Sư phụ có trao phép lạ khiến cho cửa tự động mở ra khi các bậc hiền nhân đến. Nhưng khi những kẻ phàm tục lên thì cửa cứ đóng chặt không thể nào vượt qua được. Nhất là khi kẻ ấy có yêu khí thì đừng mong lên núị"

Chàng dũng sĩ cau mày: - "Nhưng không lẽ ta mà lại là yêu quáỉ Sao cửa lại đóng chặt?" Người sư đệ cười lớn: - "Vâng đại huynh sao lại là yêu quái được! Đệ cũng quên đi mất là tại sao cửa lại đóng. Nhưng bây giờ dù sao thì đại huynh cũng lên núi được rồi cơ mà, vì cửa đã mở. Nhưng đại huynh đợi em chút nhé. Để tiểu đệ xuống suối múc nước rồi cùng lên một thể. Hay đại huynh xuống suối với đệ cho vuị Cười lên chứ, đại huynh giận ai mà nét mặt trông khó đăm đăm như vậỷ"

Hai anh em cười vang. Chàng dũng sĩ đi theo người sư đệ xuống suốị Mặt trời vẫn chưa lên, nhưng phương đông đã rạng. Hai người đã có thể nhìn rõ mặt nhaụ Mặt suối lặng trong, in màu hồng của rạng đông. Bóng hai người đứng song song in hình trên mặt suốị Chàng dũng sĩ trong bộ võ phục hiên ngang, lưng đeo trường kiếm. Người sư đệ trong y phục tiểu đồng hòa nhã, tay cầm tịnh bình. Hai người cùng nhìn bóng mình in trên mặt nước mỉm cườị Một con bọ nước nhảy, làm mặt nước hồng gợn nhẹ và bóng hai người rung rung theo làn sóng nước gợn. "Bóng chúng ta trên mặt nước đẹp quá nhỉ! Nếu bây giờ tiểu đệ múc nước thì sóng dậy và bóng tan mất. À này đại huynh "mê ngộ cảnh" sư phụ cho đại huynh còn giữ đó không?" Chàng dũng sĩ cho tay vào túi trả lời:

- Còn đây

- Tại sao chúng ta không đem ra chiếu hình chúng ta xem nào.

Chàng sực nhớ là từ lâu chàng chưa chiếu mê thử trước hình bóng mình. Chàng lấy kính thần ra, lau bụi vào vạt áo, chiếu trên mặt nước. Hai anh em châu đầu vào mặt kính.

Nhưng bỗng cả hai người cùng hét lên một tiếng kinh hoàng, khủng khiếp, và tiếp theo đó chàng dũng sĩ ngã quỵ trên bờ suối bất tỉnh. Tiếng thét kinh khủng làm chấn động cả núi rừng hoang dại . Một con nai đang uống nước phía trên dòng hoảng hốt đưa đầu lên nhìn, ngơ ngác kinh sợ. Người sư đệ vừa trông thấy trong kính thần, hình bóng của mình đứng bên cạnh hình bóng một con yêu to lớn với đôi mắt tối sâu như hai miệng giếng không đáy, hai chiếc răng dài quập sâu vào chiếc càm vuông, trên một khuôn mặt xám ngoẹt như gà cắt tiết.

Người sư đệ rùng mình dụi mắt nhìn lại, trên bờ suối đá xanh, chàng dũng sĩ vẫn nằm ngã lăn bất tỉnh, trên mặt vẫn còn in rõ nét kinh hoàng, đau khổ hiện hình một cách thảm hại trên con người đã từng xông pha lăn lộn bảy năm trong cuộc đời đầy cát bụi.

Người sư đệ đến ôm lấy chàng dũng sĩ và lấy nước suối vã vào mặt chàng. Vài phút sau, chàng tỉnh dậy, nét mặt vô cùng bi thảm. Hình bóng trên mê ngộ cảnh hiện ra bất ngờ quá và ý thức tự giác trong nháy mắt đã làm cho chàng ngả quỵ. Chàng đã mất hết nghị lực, mất hết sự sống. Tứ chi chàng rời rã, chàng không thể đứng dậy được nữạ Một chân quỵ xuống cát, người sư đệ dịu dàng nâng chàng ngồi dậỵ Nét thiểu não và khổ đau còn in rõ trên khuôn mặt chàng. - "Thôi, đại huynh vui lên. Chúng ta sẽ lại lên núị"

Giọng nói của người sư đệ êm như một hơi gió thoảng, nhẹ như một tiếng thì thầm. Nhưng chàng lắc đầu một cách thất vọng. Chàng không còn muốn sống. Đau khổ đã làm chàng thảm não và tâm hồn chàng vừa bị tàn phá tang thương như mặt đất sau cơn phong vũ điên cuồng. Chàng không còn dám có ý tưởng lên núi để nhìn mặt sư phụ. Người sư đệ vuốt tóc chàng, an ủi: "Thầy thương anh lắm. Không sao đâu, đại huynh sẽ ở mãi bên thầy (vỗ về). Đại huynh sẽ sống bên em như những ngày xưa êm đẹp cũ (khóc). Em không ngờ bao nhiêu năm dưới núi đã tàn hại anh đến thế."

Và người ta thấy trên con đường mòn cheo leo lên núi, bóng người sư đệ lần từng bước dìu chàng dũng sĩ trở lên động. Trời vẫn còn chưa sáng hẳn, bóng hai người in trên màn sương mỏng nhẹ của núi rừng buổi sáng. Tia nắng đầu tiên soi rõ dáng điệu thiểu não rời rã của chàng dũng sĩ bên cạnh dáng điệu diệu dàng từ hòa của người sư đệ. Mặt trời đã nhô khỏi đỉnh núi xa.

(Nguồn: Sưu tầm từ Quangduc.com)

Tuesday, February 14, 2012

ĐÓA HOA VÔ THƯỜNG



ĐÓA HOA VÔ THƯỜNG

Em là một đóa vô thường
Nở ra xoa dịu đau thương cuộc đời
Tình yêu – quý lắm ai ơi
Hãy cùng trân trọng, muôn lời yêu thương
Đóa hoa nở giữa đoạn trường
Lung linh ánh sáng, tỏa hương cho đời
Dẫu rằng, nở để tàn thôi
Vẫn bình yên nở, muôn đời không phai
Đóa vô thường của hôm nay
Vẫn mang hạt giống của ngày xa xưa
Vô thường sớm nắng chiều mưa
Tên em – vẫn thế ngàn xưa đến giờ
Nhắc người chớ có ơ hờ
Lãng trôi ngày tháng vật vờ vô tri
Dẫu đời thay đổi biến di
Vô thường còn đó khắc ghi trong lòng
Tình yêu tỏa ngát hư không
Hãy gìn giữ mãi tấm lòng yêu thương
Biết rằng đời vốn vô thường
Tình yêu còn mãi - ngát hương cuộc đời…

PQT

Saturday, January 28, 2012

Khai bút đầu năm

Nhân dịp Xuân mới, xin chúc mọi người vạn sự tốt lành, thân tâm an lạc, gặp nhiều may mắn và tràn đầy hạnh phúc! Xin có đôi dòng Thơ mừng Xuân mới gọi là khai bút đầu năm, để mọi người cùng đọc cho vui mấy ngày Xuân.

Mừng Xuân Nhâm Thìn

"Rồng tiềm phục bốn phương trời ẩn hiện
Thần Kim Quy phiêu dạt bãi Thanh Giang
Lúc hồn nước phiêu linh trời lãng đãng
Buổi Xuân về hò hẹn phút đăng quang" (*)

Xuân đã tới, rồng thiêng đang chuyển động
Gió tự do đang thổi bốn phương trời,
Hồn phục hưng đang réo gọi bao người
Đàn chim Việt hãy dang đôi cánh rộng...

Bay khắp trời xua đi bao ác mộng
Xiết tay nhau, kìa lịch sử chờ trông
Hãy sống dậy tinh thần nòi Bách Việt
Hỡi lịch sử bốn ngàn năm lẫm liệt.

Hãy đứng lên những người con tuấn kiệt
Cùng xoá tan những oan nghiệt yêu tà,
Để gió Xuân về làm mát lòng ta
Và sưởi ấm những ước mơ mãnh liệt...

Xuân về cất tiếng gọi mời
Muôn đàn chim Việt đáp lời núi sông,
Cùng nhau trên dưới một lòng,
Rồng thiêng cất cánh, ước mong vuông tròn,
Mùa Xuân tô thắm nước non
Tương lai tươi sáng, vẹn toàn quê hương...

PQT
Xuân Nhâm Thìn - 2012

(*) Thơ Phạm Trường Linh

Saturday, January 14, 2012

XUÂN NHỚ BỐ


XUÂN NHỚ BỐ

Bố ơi, xuân lại đến rồi,
Ngước nhìn di ảnh lòng bồi hồi đau
Con về chưa được bao lâu
Bố ra đi, để nỗi sầu vấn vương
Xuân về, mai rực nẻo đường
Nhà nhà náo nức, phố phường đông vui
Nhà mình vắng Bố, kém vui
Bánh chưng ai nấu? chuyện vui ai cười?
Cửa nhà vắng vẻ, Bố ơi!
Tách trà còn đó, Bố thời ở đâu?
Giao thừa, nhớ cảnh cùng nhau
Thắp hương cúng khấn, nguyện cầu an vui
Tết này, Bố đã xa rồi
Đến chùa, con nguyện Bố thời bình an
Gia đình hạnh phúc an khang
Xuân về mong khắp thế gian an lành
Mùa xuân Di Lặc… đến nhanh
Mai vàng nở thắm, đầy cành lộc xuân…

14-1-2012

Wednesday, January 11, 2012

Vai trò và trách nhiệm

Đầu năm đọc sách Phật để tâm hồn an tịnh và lòng nhẹ nhàng hơn. Dưới đây là 1 đoạn viết về vai trò và trách nhiệm của cá nhân trong xã hội theo tinh thần Phật giáo. Bài viết cho thấy khái niệm Tự Do là rất quan trọng trong xã hội hiện đại, và cả trong việc tu tập, nhưng cần hiểu cho đúng nghĩa của tự do cá nhân trong mỗi tương quan với vai trò và trách nhiệm của mỗi người trong xã hội để có được sự an bình trong tâm hồn. Mời mọi người cùng đọc.

_______________________

Vai trò và trách nhiệm của cá nhân trong xã hội

Trong 1 bài giảng đặc biệt cho Phật tử Sigalaka, Đức Phật chỉ ra những giá trị nền tảng hình thành nên cấu trúc vững chắc của các mối quan hệ xã hội. Một số trong các mối quan hệ thường gặp trong cuộc sống đã được đề cập, như : quan hệ với cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn hữu, đồng nghiệp và các vị thầy tâm linh. Mỗi vai trò đó đều chứa đựng những trách nhiệm và bổn phận cụ thể, mà theo như bài giảng đã nêu rõ, chúng cần phải được nhận ra và tôn trọng để duy trì an bình trong cuộc sống.

Trong thời hiện đại, chúng ta thấy có 1 phong trào hướng đến việc gia tăng nhận thức về quyền con người. Mối quan tâm về tự do cá nhân này đã làm nổi bật nhiều sự áp bức và bất công trên toàn thế giới. Tuy nhiên, trong những xã hội khá giả hơn, hiện nay đang có xu hướng quá nhấn mạnh đến vị trí cá nhân, điều này có thể được phóng đại như là một cái nhìn sai lầm về tự do. Chúng ta thường khẳng định rằng điều chúng ta tin tưởng là các quyền căn bản để mưu cầu an vui, thể hiện cảm xúc và hành động theo mong muốn của ta – nhưng nếu nhận thức mình như là 1 phần của cộng đồng trở nên bị xem nhẹ, hay mất đi, thì sẽ dẫn đến những kết quả tai hại dưới dạng sự cằn cỗi về tình cảm hay tinh thần nào đó. Rất nhiều người chiến đấu vất vả để giải phóng họ khỏi bất hạnh đã bao bọc lấy tự ngã của họ.

Trong truyền thống Phật giáo, để tôn trọng nhiều quy tắc khác nhau của gia đình, quan hệ hôn nhân và các mối quan hệ khác không đơn giản có nghĩa là tuân theo những tiêu chuẩn xa xưa hay các tập tục văn hóa đã lỗi thời. Sự thật là trong rất nhiều bài giảng của Phật giáo đều nhằm tăng trưởng chánh niệm tỉnh thức về mối quan hệ này, và được phát triển thành tinh thần tương tức. Bởi nếu chúng ta sẳn lòng chấp nhận và làm việc trong giới hạn của các mối quan hệ xã hội, chúng có thể cung cấp không gian hay điểm tập trung để chúng ta vượt qua.

Mặc dù cảm hứng tinh thần của chúng ta bao gồm những l‎ý tưởng trừu tượng hoặc hứng khởi về tình yêu và hòa bình, thực tập thực tế phải bắt đầu với những người xung quanh trong cuộc sống của ta. Nếu chúng ta đơn giản xem các bổn phận xã hội như là những giới hạn hay là thứ không cần thiết, hay miễn cưỡng trong các mối quan hệ của chúng ta, thì sự tìm kiếm tự do của chúng ta đã không hoàn toàn đặt nền tảng trên kinh nghiệm thông thường của con người, và chúng ta không thấy được sự thật. Điều này có thể hướng năng lượng của chúng ta ra khỏi bản chất tự nhiên của con người là tham dự thật sự vào tiến trình sống.

Khéo léo thiết lập mối quan hệ trong phạm vi định chế xã hội vì vậy là một cơ hội để từ bỏ nỗ lực điều chỉnh thế giới xung quanh, mà thay vào đó là mở ra và nhận thức rằng chúng ta là 1 phần của thực tại lớn hơn.

(Nguồn: sưu tầm từ Internet)

Saturday, December 17, 2011

Trăng và Xuân


Trăng và Xuân
Phạm Trường Linh

Gởi cho con những giòng thơ,
Như giòng máu tự ngàn xưa chảy về,
Núi sông ngàn dặm sơn khê,
Cha ông ký thác lời thề nước non,

Trăng trầm cửa Hát, lòng son,
Anh trăng Như Nguyệt, sóng cồn âm vang,
Bãi chông trên Bạch Đằng Giang,
Là hồn Tướng Sĩ nhục mang trong lòng,
Kể từ dậy khói Lam Sơn,
Giữa đêm biên ải, núi rừng Chí Linh,
Bình Ngô Đại Cáo rập rình,
Lửa Thăng Long, khói kinh thành đêm xuân,
Đống Đa phơn phớt hồn quân,
Bình Thanh thệ chúng, mùa xuân kiêu hùng,

Trăng vẫn tỏ giữa mịt mùng đêm tối,
Xuân ngàn năm, xuân vẫn chưa phai,
Trăng và Xuân nỗi u hoài,
Anh trăng lịch sử còn dài tình xuân.

Wednesday, December 14, 2011

Tiếng chuông tặng người

For whom the bell tolls
(John Donne)

No man is an island,
Entire of itself.
Each is a piece of the continent,
A part of the main.
If a clod be washed away by the sea,
Europe is the less.
As well as if a promontory were.
As well as if a manor of thine own
Or of thine friend's were.
Each man's death diminishes me,
For I am involved in mankind.
Therefore, send not to know
For whom the bell tolls,
It tolls for thee.

____________________

Tiếng chuông tặng người

Không ai - ốc đảo tự thân
Mỗi người ấy chính một phần thế gian
Ta là một giữa muôn vàn
Một phần của quả đất ngàn mến thương

Chẳng may, đất lở đại dương
Địa cầu bị khuyết, bị thương một phần
Chẳng may, ai đó vãn phần
Lòng ta cũng nhói, bần thần, xót xa
Bởi người xa lạ với ta
Cùng chung máu đỏ một nhà thế gian

Thế nên, mượn tiếng chuông vang
Đánh lên một tiếng tỏa lan xa gần
Cho người dẫu lạ hay thân
Cùng nghe được tiêng chuông ngân đồng đều…

(dịch thơ “For whom the bell tolls” của John Donne)

Friday, November 18, 2011

Thành công vĩ đại là thành quả của lao động vĩ đại

Great success is the fruit of great labour

Generally speaking, the life of all truly great men has been a life of intense and incessant labour. They have commonly passed the first half of life in the gross darkness of indigent humility, overlooked, mistaken, contemned by weaker men; thinking while others slept, reading while others rioted; and then, when their time was come, and some little accident has given them their first occasion, they have burst out into the light and glory of public life, rich with the spoils of time; then do the multitude cry out “a miracle of genius !”Yes, he is a miracle of genius, because he is a miracle of labour; because, instead of trusting to the resources of his own single mind, he has ransacked a thousand minds; because he makes use of the accumulated wisdom of ages….

Sidney Smith



Thành công vĩ đại là thành quả của lao động vĩ đại

Nói chung, cuộc đời của tất cả những người thật sự vĩ đại là một cuộc đời làm việc tràn đầy nhiệt huyết, không hề ngừng nghỉ. Họ thường trải qua một nửa đầu cuộc đời trong màn đêm mênh mông với sự khiêm tốn nhún nhường của những kẻ khốn cùng “mắt mù mặt cúi” bị những kẻ kém cỏi xem thường, ngộ nhận, khinh khi; họ suy nghĩ trong khi những người khác đã ngủ yên, họ đọc sách trong khi những kẻ khác ăn chơi trác táng; và sau đó, khi thời điểm đến, và vài cơ duyên nhỏ đã cho họ cơ hội đầu tiên, họ nhanh chóng bật sáng, vinh quang trong đời sống xã hội, làm giàu kiến thức và kinh nghiệm bằng tận dụng thời gian; sau đó, thiên hạ sẽ thốt lên : “Sự mầu nhiệm của thiên tài” .
Vâng, anh ta là một thiên tài kỳ diệu, bởi anh ta là người lao động kỳ diệu, và thay vì tin tưởng vào nguồn tri thức đơn độc của mình, anh ta đã lục tìm cả ngàn tư tưởng, bởi anh ta đã tận dụng được trí tuệ tích luỹ trong nhiều thời đại …

(sưu tầm)

Wednesday, November 9, 2011

Vẫn sáng trong tăm tối

Vẫn sáng trong tăm tối

Phạm Trường Linh


Trước cửa tương lai, chọn nghề thầy giáo
Chẳng vì công danh chẳng vì cơm áo,
Chỉ vì tương lai và niềm hy vọng
Hôm nay trồng người cho trăm năm sau...

Đó là nghiệp chẳng phải nghề kiếm sống
Lòng con buôn sao hiểu được lòng thầy
Đời tuy khó ta sống thanh bần vậy
Đạo lương sư chỉ biết giữ lòng ngay

Cánh hoa sen dễ gì bùn vẩn đục,
Mặc dù sen vẫn sống giữa ao lầy
Đời có hiểu hay không, ta cũng mặc
Tự ngàn xưa, phú quí có bao thầy

Và tâm sự cả một bầu nhiệt huyết
Trong trái tim, mạch sống ta dâng đầy
Ta gởi đến cho tuổi xanh băng tuyết,
Những hồn thơ trong sáng và thơ ngây,

Bao tinh hoa lấy ra từ cuộc sống,
Đãi lọc từ lịch sử bốn nghìn năm,
Để nuôi dưỡng những mầm xanh hy vọng,
Trong mỗi trái tim, mỗi ánh lửa hồng,

Ta chuyển đến em những vần thơ rực lửa,
Hai Bà Trưng, Lê Lợi đến Quang Trung,
Từ Đinh, Lý, Trần vàng son rạng rỡ,
Đến hôm nay tổ quốc vẫn anh hùng.

Đây những trái tim tình yêu tha thiết,
Đau số phận người, ta khóc với Nguyễn Du,
Thương Thuý Kiều giọt nước mắt nghìn thu,
Từ Kim Trọng đến Thúc sinh, Từ Hải,

Những đớn đau từ ngàn xưa vọng lại,
Kết tinh bằng máu huyết của thời gian,
Trong ngục tù tăm tối giữa nhân gian,
Nỗi lòng cụ Phan, thi ca người ái quốc.

Mỗi lời thơ từ đáy hồn non nước,
Ta ân cần trân trọng gởi cho em,
Cả máu tim mình trăn trở ngày đêm,
Cả khát vọng tuổi xuân bao tươi thắm,

Ta hãnh diện làm thầy cao quí lắm,
Dù khó khăn, không mặc cảm hơn thua,
Giữa giòng đời vẩn đục, chen đua,
Vẫn giữ được tấm lòng trong gương sáng,

Lời xưa đó, như vầng trăng toả rạng,
“Giang tâm như kính tĩnh vô trần”
Thế sự, nhân tình đổi trắng thay đen,
Thầy vẫn là ngọn đèn sáng trong tăm tối…

Monday, October 24, 2011

Đạo Phật giữa lòng người Việt

Đạo Phật giữa lòng người Việt
(Thạc sĩ Phạm Văn Cảnh)

Đạo Phật với tâm hồn người dân Việt chúng ta đã bao đời gắn bó, như tế bào, như hơi thở, là tình tự dân tộc, từng chia ngọt sẻ bùi trong mọi bước thăng trầm lịch sử. Mỗi khi vận nước nguy nan, sóng to gió lớn, thì tinh thần bất khuất quật khởi của dân tộc lại như ngọn thủy triều dâng lên, thể hiện lòng yêu nước mà chiến đấu, đó cũng chính là tinh thần vô úy của đạo Phật; mỗi khi gặp nghịch cảnh, không thuận lợi cho việc phát triển đất nước và đạo pháp, thì đạp Phật vẫn tùy duyên bất biến, giữ vững niềm tin và đức vô úy, cũng như dùng trí tuệ Bát Nhã, xóa bỏ vô minh thù hận tham si, để cứu độ chúng sinh vượt khỏi sông mê.

Có khi, gặp thuận cảnh, thì đạo Phật lại tham gia triều chính, quốc sự... tùy duyên hóa độ, mở ra những trang sử vừa rực rỡ của chiến công, vừa đầy lòng nhân ái của tình người và đại nghĩa. Triều Lý nước ta đã có những vị chân tu làm quốc sư, các vị quan lại là Phật tử, kiến thiết đất nước, xây dựng nhân sinh quan trên tư tưởng đạo Phật làm cho đất nước được phú cường, nhân dân hạnh phúc. Triều Trần, nước ta có vị anh hùng, Trần Nhân Tông lại là một thiền sư đắc đạo, mở ra cả một giòng thiền... Văn hóa của đạo Phật và văn hóa của dân tộc ta gắn bó với nhau hơn bao giờ hết.

Không chỉ dừng lại trong hạnh từ bi hay lòng nhân nghĩa, mà tinh thần vô úy, đại hùng đại lực còn kết hợp với tình yêu đất nước đã khiến các triều đại này lập nên bao chiến công hiển hách, để lại cho con cháu niềm kiêu hãnh ngàn đời : đánh Tống bình Chiêm, mở mang bờ cõi... Ba lần phá tan đạo quân Nguyên hung hãn và tàn bạo bậc nhất trong lịch sử chiến tranh xâm lược của loài người.

Cũng từ cái nôi của thời văn hóa thăng hoa Lý Trần mà các trào lưu tư tưởng đã ra đời : Sự xuất hiện của hai phái Thiền Thảo Đường (dưới triều Lý), Thiền Trúc Lâm (dưới triều Trần)... cùng với các tác phẩm văn hóa tiêu biểu, như : Chiếu Dời Đô, Nam Quốc Sơn Hà, Hịch Tướng Sĩ, Khóa Hư Lục, Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Điện U Linh Tập, Thiền Uyển Tập Anh... đã đánh dấu thời kỳ sáng tạo rực rỡ của văn hóa Việt. Không chỉ trên lĩnh vực tư tưởng, mà cả các tác phẩm binh thư võ công kiệt xuất, như : An Nam Hành Quân Pháp (đời Lý), Vạn Kiếp Bí Truyền Thư, Binh Thư Yếu Lược... (Trần Hưng Đạo), thể hiện sự độc sáng của dân Việt trên cơ sở tư tưởng đạo Phật, kết hợp cùng tinh thần Khổng và Lão giáo.

Thế cho nên không ai còn hoài nghi về sự gắn bó, thủy chung giữa tư tưởng đạo Phật và văn hóa Việt. Nó hòa quyện, chia sẻ với nhau trên suốt hành trình lịch sử, lúc nào đạo Phật hưng vượng thì đất nước được thái bình thịnh trị, lúc nào đạo Phật suy vi, gặp pháp nạn... thì vận nước cũng đảo điên.

Về nền văn học dân gian, chỉ xem qua kho tàng cổ tích Việt Nam (1), chắc không ai ngạc nhiên về hình ảnh của ông Bụt xuất hiện ở khắp mọi nơi, như một cái gì gần gũi gắn bó với tâm hồn Việt Nam từ rất sớm... Chỉ mỗi khi nguy nan, nhọc nhằn đau khổ, ức hiếp, bất công và tai nạn... thì ngọn gió từ bi trong lành, giọt nước cành dương tươi mát, lại xuất hiện trong mỗi hoạn nạn nhân gian để cứu khổn phò nguy, trừ tai giải họa... qua hình ảnh ông Bụt. Bụt trong Tấm Cám, Cây Tre Trăm Đốt, trong Chử Đồng Tử... và hầu hết các truyện cổ tích Việt Nam. Bụt khắp mọi nơi, trong nỗi đau khổ của nhân gian đều chờ đợi Bụt hiện ra... thật kỳ diệu lạ lùng...

Trong kho tàng ca dao có vô số câu dẫn chứng tư tưởng đạo Phật, về thuyết nhân quả, ở hiền gặp lành, làm ác gặp dữ, quả báo nhãn tiền, tu là cội phúc... chỉ cần dẫn một vài câu cũng chứa đủ cả triết lý thâm sâu lẫn thực hành ứng dụng:

Dẫu xây chín vạn phù đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một người

hoặc:

Không thờ lạy Phật trong nhà,
Lại đi thờ những quỷ ma ngoài đường.

hoặc:

Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa...

Theo các tài liệu nghiên cứu lịch sử gần đây, thì Đạo Phật đã đến với người Âu Lạc từ 240 năm trước Tây Lịch, vào thời đại Hùng Vương, qua các thương nhân Ấn Độ, Trung Á... bằng "con đường đồng cỏ", và các giòng sông Cửu Long (phát nguyên từ Tây Tạng), Hồng Hà, Hắc Giang... tiếp đó lại với "con đường hồ tiêu", trục lộ giao thông đường biển của các thương nhân vùng Địa Trung Hải, Trung Cận Đông, Ấn Độ sang buôn bán với Champa và người Giao Chỉ, sau đó đạo Phật mới đến bằng con đường lục địa từ Trung Quốc truyền sang... (2)

Thế cho nên, tư tưởng Phật đã mọc mầm bén rễ từ rất lâu đời, là nguồn trợ duyên đắc lực cho sự phát triển mọi mặt của nước ta.

Nhưng giòng sống Việt không phải lúc nào cũng thăng hoa, thuận lợi cho sự phát triển, mà bản thân xã hội ta, từ sau thế chiến, đang rơi vào một tình trạng phân hóa, diễn biến phức tạp. Qua bao biến chuyển của thời đại, giờ đây một thứ văn minh hình thức đang ngự trị : tư tưởng thực dụng chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa các ý thức hệ ngoại lai, sự sùng bái đồng tiền và vật chất nói chung, lòng ham mê hư danh bổng lộc, sự đảo lộn cương thường, phong hóa, sự phủ nhận các giá trị truyền thống, sự tha hóa của cá nhân, xuống cấp nhân cách của con người thời đại... tất cả thực trạng đó, đòi hỏi mỗi người dân Việt phải tìm hiểu lại cội gốc tư tưởng tinh hoa Việt, uống lại suối nguồn của lòng yêu thương vô ngã, của tinh thần từ bi trí tuệ, xây dựng nhân cách cao thượng của đạo Phật, đạo lý Đông Phương... để tu dưỡng mình và nhập thế trong hoàn cảnh hiện tại, làm những nhân tố phát triển cho thời đại mới, thức tỉnh lòng người, và đốt lên ngọn lửa tâm trong lành tươi mát... cho đất nước, giang sơn Việt, để mong còn có cơ hội thịnh vượng, thăng hoa...



Chú thích:
(1) Kho tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Nguyễn Đổng Chi, NXB. KHXH, Hà Nội, 1972.
(2) A Correlated History of The Far East - Maria Penkala - Tokyo, 1966.