Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Thursday, January 14, 2010

SUY NGHĨ VỀ KHÁI NIỆM TRÍ THỨC

SUY NGHĨ VỀ KHÁI NIỆM TRÍ THỨC

GS.NGND. NGUYỄN NGỌC LANH

“Trí thức” từ đâu ra?

Intellectuel (tiếng Pháp) hay intellectual (tiếng Anh) trong từ điển vốn là một tính từ, còn danh từ gốc của nó là intellect (trí tuệ, trí thông minh). Nhưng một văn bản công bố năm 1906 – do nhà văn Zola ký tên đầu – lại được thủ tướng Pháp Clemenceau (tiến sĩ, nhà báo) gọi là Tuyên ngôn của Trí thức (Manifeste Des Intellectuels). Thế là một tính từ trở thành danh từ mới, chưa có trong các từ điển trước đó như Larousse 1866-1878 hay Đại từ điển Bách khoa 1885-1902.

Đó là bản kháng nghị nổi tiếng, của các nhà văn, nhà khoa học nổi tiếng, chống lại một bản án oan cũng nổi tiếng là xấu xa trong lịch sử tư pháp (xử đại úy Dreyfuss, sau gọi là “sự kiện Dreyfuss”). Như vậy, danh từ “trí thức” ra đời trong một sự kiện chống bất công, còn “người trí thức” ra đời khi xã hội thừa nhận danh từ này.

Thực ra, rất lâu trước đó đã có vô số cá nhân có phẩm chất và tiếng tăm không kém các tác giả bản tuyên ngôn nói trên, nhưng ý thức tự liên kết (ví dụ cùng ký tên vào một tuyên ngôn) và điều kiện cho phép liên kết để thực hiện những thiên chức xã hội thì chỉ xuất hiện khi xã hội có dân chủ; đồng thời người dân khi được hưởng các quyền tự do cũng bắt đầu hiểu rõ chức năng xã hội của tầng lớp trí thức và hưởng ứng họ.

Trí thức và dân chủ

Quả vậy, dẫu các tác giả của bản tuyên ngôn là những người uy tín lớn và đang được xã hội trọng vọng, như Emile Zola (1840-1902), Anatole France (1844-1924), Halevy, Buinot, Leon Blum… nhưng thật ra bản tuyên ngôn của họ chỉ có thể ra đời khi nước Pháp đã có chế độ dân chủ, ba quyền tối thượng đã được phân lập rạch ròi. Thủ tướng đứng đầu ngành hành pháp, quyền hành cực lớn, vẫn không được phép can thiệp vào công việc tư pháp, dẫu tư pháp đưa ra bản án oan.

Thế mà, nhờ “bản tuyên ngôn” và tiếp đó nhờ dư luận và báo chí dấy lên, bản án oan đã phải sửa sau nhiều năm chây ỳ.

Tương tự như vậy, học thuyết Mác cũng chỉ có thể công bố trong một xã hội đã tương đối dân chủ. Thời đó, cố nhiên nền báo chí công quyền không thể đăng những tác phẩm trong đó Mác cổ vũ quần chúng dùng bạo lực tước đoạt tư liệu sản xuất của giai cấp tư bản. Nhưng đã có báo chí và nhà xuất bản tư nhân (bản thân Mác cũng từng là tổng biên tập một tờ báo). Còn dưới thời phong kiến thì một bản án mà vua đã quyết, dù là oan thấu trời (như án Nguyễn Trãi) cũng không một ai dám phản đối. Người bị oan chỉ có một cách là “mong sao thánh thượng hồi tâm”.

Can đảm là một tính cách của trí thức: dám nói ra và dám bảo vệ chân lý. Khổng Tử nói nho sĩ phải là người đủ ba phẩm chất: có trách nhiệm cao, có lòng tự trọng và dũng cảm. Mác còn nói rõ hơn: Trí thức, ngoài khả năng sáng tạo, còn phải “dám phê phán thẳng thừng mọi thứ cần phê phán, không lùi bước trước mọi kết luận, mọi đụng chạm – dù là đụng chạm tới thứ quyền lực nào”.

Như trên đã nói, những cá nhân có trí tuệ cao, có phẩm cách đẹp đã xuất hiện rất sớm và được gọi bằng các tên khác nhau, tuy họ chưa tự ý thức và chưa có quyền liên kết lại. Phương Đông từ cả ngàn năm trước đã gọi họ là bậc thánh hiền (Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử…), bậc hiền tài, sĩ phu, kẻ sĩ… Ngoài tài năng, giới trí thức xưa còn được ca ngợi là “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (sách Mạnh Tử: phú quý không làm mê muội, nghèo khổ không làm lay chuyển, uy vũ không khuất phục nổi). Câu này nói lên dưới chế độ chuyên chế họ từng bị mua chuộc, bị cái nghèo hành hạ và bị trấn áp, chứ không chỉ có tôn vinh mà thôi.

Chính do được tôn vinh, trí thức cũng có “thật” và “giả” vì có những người muốn được tôn vinh bằng công sức tối thiểu. Một xã hội có quá nhiều trí thức “giả” – như chuyện mua quan bán chức cuối thời vua Lê chúa Trịnh – là xã hội thoái hoá và hỗn loạn, vì thứ “giả” này sẽ chiếm những địa vị cao, ảnh hưởng lớn, kể cả có quyền cho phép nhiều loại “giả” khác phát sinh, phát triển và lưu hành.

Về định nghĩa trí thức

Có nhiều định nghĩa trí thức, rất dễ tìm trên internet. Không chỉ nhiều, mà rất nhiều, cho thấy đến nay định nghĩa trí thức vẫn chưa thật định hình. Do vậy, khi bàn về trí thức thường người ta phải xác định khái niệm trước khi bàn tiếp. Nhiều nhà trí thức lớn cũng đưa định nghĩa của mình, trong đó có những định nghĩa mới chỉ nêu tính cách đặc trưng hơn là nêu bản chất. Ví dụ: “trí thức là người phát hiện những điều thuộc bản chất sự vật mà người khác không nhìn ra được”; hoặc "Người trí thức là người luôn có khát vọng tự do”. Nhiều bạn đọc của VietnamNet khi thảo luận đề tài này cũng tự ý đưa ra những định nghĩa theo quan niệm của mình, khiến vấn đề càng phong phú, nhưng sẽ càng khó thảo luận khi khái niệm chưa thống nhất.

Dẫu vậy, vẫn có thể phân chia các định nghĩa hiện hành thành 2 nhóm: nhóm chặt chẽ (rất hữu dụng khi bàn vấn đề ở bình diện triết lý, gồm cả thiên chức, nhiệm vụ trí thức đối với nhân quần, xã hội) và nhóm thông dụng (để dùng rộng rãi trong đời sống, dễ hiểu với trình độ chung).

Một cách chặt chẽ, trí thức phải là người:

1) Sáng tạo những giá trị tinh thần. Mức độ sáng tạo cho phép tách ra những trí thức lớn, tầm cỡ nhân loại; và

2) Chỉ tôn thờ những giá trị tinh thần vĩnh hằng: Chân (chân lý, sự thật), Thiện (cái tốt), Mỹ (cái đẹp).

Từ cái gốc này, do đặc trưng lao động, trí thức có những phẩm chất, tính cách nhất định – không bẩm sinh và cũng không phải là độc quyền của trí thức. Ví dụ, để sáng tạo, trí thức phải có một cái vốn tri thức cao hơn mặt bằng chung (đã đành) nhưng quan trọng là phải bổ sung suốt đời (để sáng tạo tiếp). Điều này rất tương đối, vì mặt bằng dân trí mỗi thời một khác: thầy giáo tiểu học là lao động trí óc (đúng với mọi thời) nhưng trước đây 60 năm có thể là trí thức – nếu có sáng tạo (ví dụ như Nam Cao, Tô Hoài…)

Do tôn thờ chân lý, trí thức chỉ tin những gì đã được chứng minh đầy đủ và do đó bảo vệ sự thật đến cùng. Khám phá chân lý là niềm say mê cao nhất (bị cấm đoán nghiên cứu hoặc cấm nói sự thật là điều đau khổ vô tận – từ đó, suy ra trí thức căm ghét cái gì). Khám phá ra chân lý là hạnh phúc cao nhất, do vậy họ có yêu cầu bức xúc công bố và đòi hỏi được công bố (Galilê bị cấm công bố “quả đất tròn”). Tuy quyết bảo vệ kết quả nghiên cứu bằng tranh luận, nhưng trí thức cũng sẵn sàng nhận sai lầm, từ bỏ niềm tin, nếu có chứng minh đầy đủ – từ đó họ đòi hỏi tự do tư tưởng, tự do ngôn luận… Tôn thờ cái tốt (thiện), trí thức rất nhậy cảm khi cái xấu lộng hành (ví dụ bất công, áp bức, hạn chế quyền tự do, dân chủ giả hiệu…)

Chúng ta có thể suy ra những tính cách khác nữa của trí thức nhưng không nên dùng những tính cách này để định nghĩa, vì đó chỉ là đặc trưng mà chưa phải bản chất của trí thức (và cũng không phải của riêng trí thức). Một cô giáo ở Đà Nẵng chấp nhận tiến thân bằng thi cử công bằng: Đó là thái độ của trí thức, dù cô chưa phải trí thức. Theo cụ Trường Chinh thì:“Phải nói rõ, nói hết sự thật; gọi sự vật bằng đúng tên của nó”; cụ Nguyễn Đức Bình đòi hỏi “Đặt mọi ý kiến khác biệt lên bàn tranh luận”… đều là thái độ thẳng thắn và cầu thị của trí thức, dù đây là những nhà chính trị.

Theo cách thông dụng, trí thức được định nghĩa như những người lao động trí óc nói chung, ví dụ: trong khẩu hiệu “Liên minh Công – Nông – Trí”; hoặc trong một bản thành tích có câu: chế độ ưu việt của ta đã đào tạo được hàng triệu trí thức XHCN… Cách định nghĩa này làm số trí thức trong xã hội tăng lên rất nhiều, có mặt ở mọi lĩnh vực, ngành nghề.

Còn theo cách chặt chẽ, thì một văn hào và người thư ký của ông đều là lao động trí óc, nhưng trong đó chỉ một người là trí thức. Cũng theo cách chặt chẽ, một tiến sĩ nếu không nghiên cứu sáng tạo gì, thì vẫn thiếu vế đầu để được coi là trí thức đúng nghĩa. Bằng cấp cao, nhưng không sống chết tôn thờ Chân, Thiện, Mỹ biểu hiện bằng biết mà không dám nói sự thật, không căm ghét độc tài, thái độ ba phải trước bất công, phản dân chủ… thì thiếu nốt cả vế thứ hai của tiêu chuẩn trí thức.

Nguyễn Du không những sáng tác Truyện Kiều mà trong truyện ông tỏ thái độ rất rõ đối với bất công, áp bức, thân phận con người. Vua Tự Đức đọc đến câu “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” (ca ngợi Từ Hải) đã đòi phạt “đánh đòn” Nguyễn Du (khi ông đã mất). Dưới chế độ phong kiến ngạt thở như vậy, Nguyễn Du vẫn khôn khéo nói được điều cần nói, biểu lộ được thái độ cần có, đúng là trí thức lớn của dân tộc ta.

(Trích dẫn từ: http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Suy-ngam/Suy_nghi_ve_khai_niem_tri_thuc/)

Thursday, January 7, 2010

Một số hình ảnh luyện tập Vĩnh Xuân Quyền

CLB. VXQ Việt Nam - CV. Lê Thị Riêng
(Tháng 1/ 2009)

Wednesday, December 23, 2009

Những suy nghĩ cuối năm 2009


Còn vài ngày nữa là hết năm 2009, một năm của những biến động, thay đổi...
Thời tiết lúc này khá lạnh, mọi người lại rộn ràng chuẩn bị cho những kế hoạch vui chơi trong những ngày nghỉ tết. Đường phố lại nhộn nhịp với những dòng người qua lại. Các cửa hàng, siêu thị đều được trang hoàng lộng lẫy cho một mùa giáng sinh và năm mới sắp tới.

Năm đến rồi năm đi, đông tàn rồi lại xuân...
Cứ thế mọi việc trên đời cũng trôi chảy bất tận như một dòng sông, không biết lúc nào dừng.

Thời điểm cuối năm, có 1 chút thời gian rảnh rỗi, cũng là lúc mọi người nên dành ít phút để nhìn lại chính bản thân mình, xem rằng một năm qua, mình đã làm được những gì, và những gì chưa làm được. Xem lại những suy nghĩ, lời nói, hành động của mình trong một năm đã qua, có gì còn chưa tốt, còn cần khắc phục để trở nên hoàn thiện hơn.
Có nhìn lại chính mình, đặt những mục tiêu cao hơn để phấn đấu, mình mới thấy là cuộc đời thật ý nghĩa, mới thấy mỗi ngày trôi qua, mỗi bước chân mình đi là mình đang tiến gần đến sự hoàn thiện. Và hành trình đó thì không bao giờ kết thúc cả.
Có thể những cái ở thời điểm này mình cho là hay rồi, là tốt rồi, nhưng một năm sau có khi mình lại thấy vẫn còn chưa hay, chưa tốt, và cứ như thế... mục tiêu cứ mở rộng dần cho đến vô hạn theo tầm hiểu biết của mình về thế giới xung quanh.
Vì vậy, càng sống nhiều, càng có nhiều kinh nghiệm, thì mình càng nhìn thấy cuộc đời rõ hơn, và hành xử đúng hơn. Mình sẽ biết sống với những giá trị lâu dài, bền vững, hơn là chạy theo những hào hoa, giả tạm của cuộc đời.
Những giá trị lâu dài đó chính là tình cảm giữa con người với nhau, là lòng yêu thương, độ lượng, vị tha, là trí tuệ phán đoán đúng sai, là sự bao dung, chấp nhận và ít cố chấp...
Những hào hoa, giả tạm cũng có rất nhiều, như là danh vọng, địa vị, tài sản, lời khen, tiếng chê, thắng, thua, thành, bại...
Biết sống với những giá trị lâu dài, thì mỗi năm qua, mình lại tích lũy thêm được nhiều hạnh phúc bởi mình sẳn sàng cho đi những tình cảm và tri thức mà không có gì để sợ mất, còn sống với những giá trị nhất thời, giả tạm, thì mỗi năm trôi qua, mình sẽ càng cảm thấy mệt mỏi, căng thẳng bởi mình sẽ phải luôn tranh đua để đạt được, và bất an, lo lắng vì sợ mất.
Mong sao, mọi người luôn biết sống với những giá trị chân thật của cuộc đời, để sau một năm, dù thuận buồm xuôi gió, hay gian nan vất vả, khi nhìn lại, mình vẫn cảm thấy nhẹ nhàng, và mĩm cười hạnh phúc. Để từ đó, sẳn sàng chuẩn bị cho một hành trình mới, hướng tới những mục tiêu cao hơn và đẹp hơn ở phía trước. Dù hoàn cảnh sắp tới có thế nào, nhưng với tình thương và sự hiểu biết, thì lúc nào trên hành trình mình đi qua, cũng sẽ đầy ắp những hoa thơm và trái ngọt.

Chúc cho mọi người một mùa giáng sinh thật vui vẻ và một năm mới 2010 thật nhiều niềm vui, an lành và hạnh phúc !
Kyoto - 23/12/2009

Sunday, December 20, 2009

THỐNG NHẤT SƠN HÀ


THỐNG NHẤT SƠN HÀ

Nước nhà gặp buổi phân ly
Mười hai sứ loạn, kinh kỳ đau thương
Lòng dân ôi nỗi đoạn trường
Quê hương, dân tộc, máu xương chia lìa
Núi sông, quyền lực phân chia
Mỗi người một cõi, nước thì ra sao ?
Hỡi đâu là đấng anh hào,
Ra tay dẹp loạn, đồng bào chịu ơn
Trước là tài, trí phải hơn
Sau là xóa sạch nỗi hờn chiến tranh,
Trẻ thơ mà đã khôn lanh
Bông lau tập trận, đều dành chiến công
Đinh Tiên Hoàng Đế một lòng
Dẹp tan loạn lạc, non sông thu về
Sơn hà thống nhất, vui ghê !
Người dân bớt khổ, đồng quê lại vàng
Lập công, ca khúc khải hoàn
Quê hương xây đắp, lại càng hơn xưa…

Saturday, December 12, 2009

THIÊN NHIÊN


THIÊN NHIÊN

Lắng nghe tiếng hát dòng sông
Gió reo nhè nhẹ cõi lòng thênh thang
Mắt trông hoa nở đỏ vàng
Mây trôi, thác đổ, ngỡ ngàng cảnh tiên
Chú tâm, cảnh đẹp hiện tiền
Lãng tâm, rong ruỗi khắp miền - vẫn không
Hôm nay về lại dòng sông
Lặng im, thưởng cảnh, lòng trong - yên bình.

Saturday, November 14, 2009

TÂM SỰ NGƯỜI LÁI ĐÒ



TÂM SỰ NGƯỜI LÁI ĐÒ

Chèo đò đưa khách sang sông
Rồi tôi ở lại ngóng trông phương trời,
Đưa người lũ khách đến nơi
Vượt qua gian khổ - thảnh thơi trở về
Chèo đò - vất vả gian khê
Nhiều phen sóng gió - nhiều bề gian nan.
Dù cho số phận phủ phàng
Người lái đò vẫn chẳng màng lợi danh
Đưa người đến chốn an lành
Đó là hạnh phúc trời xanh hiểu lòng
Lời ca tiếng hát vang sông
Niềm vui sướng ấy vượt dòng thời gian.

8/1997

Thursday, November 5, 2009

TÂM SỰ NGƯỜI THẦY



TÂM SỰ NGƯỜI THẦY

Làm thầy nhiều niềm vui
Mà cũng lắm nỗi buồn
Vui những giờ đứng lớp
Buồn mỗi lớp trò qua

Tình thầy trò thật đẹp
Như trang giấy điểm hoa
Nếu cuộc đời mãi vậy
Hạnh phúc phải đâu xa ?

Quý trọng từng khoảnh khắc
Nâng niu tháng ngày qua
Tình thương và tri thức
Còn mãi chẳng phôi pha

Làm nghề thầy cao quý,
Đem tri thức cho đời
Dẫu gian lao cực khổ
Vẫn hạnh phúc người ơi !

Sống cho tròn nguyện ước
Vui với đạo an bần
Chẳng buồn bao thế sự
Sống mãi giữa mùa xuân…

Tháng 12/2003

Friday, October 23, 2009

Nhớ cụ Chu Văn An

Lang thang trên mạng Internet, vô tình đọc được bài này (http://vietbao.vn/Xa-hoi/Nho-cu-Chu-Van-An/30145393/126/) đăng trên vietbao.vn cách đây hơn 3 năm, nhưng đến nay vẫn còn tính thời sự. Vì vậy, copy và post lại để mọi người cùng đọc.
Nhớ về cụ Chu Văn An của ngày xưa với thất trảm sớ, lại chợt nghĩ đến các nhà khoa học ở viện IDS ngày nay với những lời phản biện thẳng thắn nhưng 'dễ mất lòng'. Có thể so sánh việc cáo quan về hưu của cụ Chu Văn An với quyết định tự giải thể của các nhà khoa học ngày nay. Rất may, ngày xưa vua Trần Dụ Tông tuy không nghe lời cụ chém đầu 7 tên gian thần, nhưng cũng không dám vô lễ yêu cầu cấp dưới 'xem xét xử lý những phát biểu thiếu tinh thần xây dựng' của cụ! :)
Chuyện tuy xa xưa, nhưng ngẫm kỹ thì vẫn rất gần vậy!


Nhớ cụ Chu Văn An

Sự nghiệp văn chương của cụ Chu Văn An để lại không nhiều, chỉ còn 12 bài thơ của cụ nằm rải rác ở nhiều bộ sách khác của đời sau. Những tác phẩm của cụ viết như Tứ thư thuyết ước, Tiều ẩn thi tập, Quốc ngữ thi văn thì đều đã thất lạc, không còn. Người đời sau chỉ còn biết đến tên các tác phẩm đó, chứ nội dung ra sao thì không biết. Nhưng tại sao người đời vẫn luôn luôn nhớ đến tên cụ, với lòng kính trọng sâu sắc?

Chính bởi vì cụ Chu Văn An là tác giả của bản Thất Trảm Sớ, tờ sớ xin chém 7 tên gian thần thời vua Trần Dụ Tông. Bản Thất Trảm Sớ đó ngày nay cũng không còn, người đời không biết nội dung của tờ Sớ ra sao. Nhưng người đời biết được tên của bản Thất Trảm Sớ đó, và chỉ riêng cái tên đó thôi, với nội dung xin chém 7 tên gian thần, cũng đủ để nhân dân nhớ mãi đến tên cụ Chu Văn An.

Nhà Trần trải qua 12 đời vua, từ vua đầu tiên Trần Thái Tông năm 1225, đến vua cuối cùng là Trần Thiếu Đế năm 1400. Như vậy nhà Trần kéo dài được 175 năm. Sau đó vào năm 1400 bị Hồ Quý Ly cướp ngôi. Cụ Chu Văn An sinh ra vào thời vua thứ 6 của nhà Trần, tức vua Trần Minh Tông, trải qua đời vua Trần Dụ Tông, và mất vào đời vua thứ 8 của nhà Trần, tức vua Trần Nghệ Tông, năm 1370.

Thời vua Trần Dụ Tông là thời kỳ bắt đầu suy sụp của nhà Trần, và cũng là khi cụ Chu Văn An dâng Sớ xin vua Trần Dụ Tông chém 7 tên gian thần, để mong cứu vãn nhà Trần. Nhà Trần đã lập được chiến công lừng lẫy 3 lần đánh tan quân Nguyên, với các tên tuổi vua quan, tướng lĩnh Việt Nam tài ba, đức độ, anh hùng như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Trần Bình Trọng…

Thế nhưng những con cháu nhà Trần, những người nối nghiệp Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo… đã dần dần phá hoại sự nghiệp cha ông để lại. Vua quan bắt đầu ăn chơi, tham nhũng, đục khoét của dân, dân thì nghèo lầm than, vua quan thì sung sướng, sa đọa. Vua Trần Dụ Tông lúc đầu lên nối ngôi vua, cũng tỏ vẻ là vị vua hiền, nói điều hay, chăm lo cho dân. Đại việt sử ký toàn thư viết rằng vua Trần Dụ Tông lúc đầu biết “chăm lo việc võ, sửa sang việc văn, các di đều thần phục… Nhưng về sau, chơi bời quá độ, cơ nghiệp nhà Trần suy yếu từ đó”.

Cụ Chu Văn An khi đó là Tư nghiệp Quốc tử giám, tức là Hiệu trưởng Trường Đại học Quốc Tử Giám như cách nói ngày nay. Trường Đại học Quốc Tử Giám là nơi dạy dỗ các con vua, nên chức Tư nghiệp rất có uy tín và uy thế trong triều. Cụ Chu Văn An, cũng như các đại thần liêm khiết, tài giỏi thời đó như Lê Quát, Phạm Sư Mạnh… đều cảm thấy sót xa trước cơ nghiệp lừng lẫy của nhà Trần đang có nguy cơ ngày càng lụn bại bởi vua ham chơi, bởi bọn tham quan, nịnh thần. Nhiều người muốn lên tiếng khuyên can vua để cứu vãn cơ nghiệp ông cha để lại, một cơ nghiệp đã phải đổi bằng xương máu của biết bao nhiêu người trong 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xưa. Nhưng ai cũng sợ mất ghế, sợ bị chụp mũ là phản động, chống lại triều đình. Nên không có ai dám nói gì, chỉ hèn nhát ấm ức trong lòng.

Chỉ có cụ Chu Văn An dám nói. Cụ không sợ mất ghế, không sợ bị chụp mũ là phản động, chống lại triều đình. Cụ viết Thất Trảm Sớ, gửi lên vua Trần Dụ Tông. Vua Trần Dụ Tông xem tờ sớ xong, rồi ỉm đi. Cho đến tận bây giờ, đã hơn 600 năm trôi qua, không ai biết nội dung cụ thể tờ Sớ khủng khiếp đó nói gì, chỉ biết rằng tờ Sớ đó xin chém những kẻ tham nhũng, nịnh thần trong triều, những kẻ sẽ làm sụp đổ cơ nghiệp đã hơn 100 năm của nhà Trần.

Tờ Sớ đó liệt tên những kẻ gian thần nào, không ai biết, nhưng nhân dân thì biết thời đó, có những tên tham quan, nịnh thần nổi tiếng như Trâu Canh, Bùi Khoan, Trần Ngô Lang… Thật ra kẻ đáng phải chém, phải lật đổ để cứu dân đen khỏi lầm than, cứu sự nghiệp của nhà Trần, chính là Trần Dụ Tông, vì ông vua này về cuối đời vô cùng ăn chơi sa đọa.

Tên Trâu Canh khuyên ông vua đó uống mật trẻ con, và thông dâm với chị gái của ông ta, để chữa bệnh liệt dương. Và ông vua Trần Dụ Tông đã làm như thế. Nhưng ông vua này là biểu tượng của nhà Trần, biểu tượng của 3 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên anh hùng xưa. Hơn nữa ông ta lại là kẻ đang có quyền lực trong tay. Chưa thể đụng vào ông vua sa đọa ấy được. Có lẽ vì thế mà cụ Chu Văn An chỉ xin ông vua đó chém những tên vây cánh gian tham của vua, để mong vua tỉnh ngộ.

Vua Trần Dụ Tông đã ỉm tờ Sớ đi, và im lặng đáng sợ, không trả lời gì cụ Chu Văn An, vốn là thầy giáo của nhiều vị vua nhà Trần.

“Ông không thèm chơi với chúng mày nữa”, cụ Chu Văn An khảng khái tuyên bố, và cụ treo mũ, từ quan, trả lại chức Tế tửu đầy quyền lực, bổng lộc. Cụ về núi Chí Linh, Hải Dương, làm nhà giữa hai ngọn núi Kỳ Lân và Phượng Hoàng để ở ẩn.

Nhưng thời đó vẫn còn nhiều “lễ, nghĩa, trí, tín”, nên vua Trần Dụ Tông mặc dù là ông vua chơi bời, sa đọa, nhưng không chụp mũ cho cụ Chu Văn An là bất mãn, làm loạn, chống lại triều đình. Có lần vua còn định mời cụ ra làm quan lại. Vợ vua cũng là người biết lẽ cương thường, nên đã khuyên vua: “Ông ấy là người không thể bắt làm tôi được, ta sai bảo thế nào được ông ấy”. Thỉnh thoảng vua Trần Dụ Tông còn về núi Chí Linh thăm cụ Chu Văn An. Các học trò của cụ như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát làm Hành khiển, giống như Bộ trưởng bây giờ, vẫn hàng năm lặn lội về thăm cụ, khi nói chuyện vẫn giữ đạo thầy trò, quỳ nghe cụ răn dạy.

Nhưng thời đó không có Sổ hộ khẩu như bây giờ, quyền tư hữu ruộng đất cũng vẫn có, không bị tước đoạt. Nên cụ Chu Văn An treo mũ, từ quan về làm nhà ở ẩn ở núi Chí Linh cũng không có ai hoạnh họe gì về giấy tờ nhà đất, về hộ khẩu gì… cả. Giả sử nếu bây giờ có vị quan chức cao cấp nào từ quan vì “không muốn chơi với bọn tham nhũng”, về núi Chí Linh ở ẩn, thì chắc cũng khó vì các thứ giấy tờ đủ loại. Đó là chưa kể còn có thể bị chụp mũ này nọ.

Có thể có người sẽ chê cụ Chu Văn An là sao lại tiêu cực, hèn nhát về ở ẩn, mà không ở lại tiếp tục chiến đấu với bọn tham quan?

Đừng nên anh hùng rơm như thế. Dám treo mũ từ quan, dám không màng danh lợi, dám từ bỏ cái ghế đầy bổng lộc, quyền thế, dám không sợ bị vùi dập, để tỏ rõ cái khí tiết của người có đạo đức trong sạch, đó là rất dũng cảm đấy.

Nhớ đến cụ Chu Văn An, để thấy rằng ngày nay, những người dũng cảm và trong sạch như cụ Chu Văn An còn hiếm lắm.

Minh Tuấn
(Từ Tokyo)

Monday, October 19, 2009

LAM SƠN KHỞI NGHĨA



LAM SƠN KHỞI NGHĨA

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân dẹp tan cường bạo” •
Những lời sâu sắc làm sao !
Đạo lý muôn đời, con cháu noi theo.

Đất Lam Sơn – gieo neo sương khói
Vì quê hương, sông núi mịt mờ
Lê Lợi chủ soái phất cờ
Nguyễn Trãi phò tá, quân cơ mật bàn…

Mười năm dài, gian nan vất vả
Nếm mật, nằm gai, đã quen rồi
Đợi khi thời điểm chín mùi
Một phen khởi nghĩa, tơi bời giặc Ngô.

Sạch bóng giặc Bình Ngô Đại Cáo
Lập chiến công, đền báo ơn cha
Quyết lòng xây lại nước nhà
Lam Sơn hát mãi khúc ca kiêu hùng…

-----
• Trích Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi