Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Friday, August 21, 2009

Vài suy nghĩ nhân mùa Vu Lan báo hiếu

Vài suy nghĩ nhân mùa Vu Lan báo hiếu

Hằng năm, cứ vào dịp rằm tháng 7 (15/7 âm lịch), là mùa lễ hội Vu Lan, là dịp để những người con hiếu thảo tưởng nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Lòng hiếu thảo có thể được thể hiện bằng nhiều cách, nhưng phổ biến nhất vẫn là đến chùa thắp hương, lễ Phật và cầu mong mọi điều an lành đến cho cha mẹ hiện tiền cũng như đã quá vãng. Đây là 1 phong tục rất hay của người Phật tử ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước châu Á khác.

Ở nhiều nước, họ có những ngày riêng để tưởng nhớ về công ơn cha mẹ, như là ngày Mother’s Day hoặc ngày Father’s Day. Ở nước ta, hình như chưa có một ngày lễ chính thức để thể hiện lòng biết ơn với cha mẹ, vì vậy nên chăng, chúng ta hãy dựa vào ngày Vu Lan báo hiếu của đạo Phật để phát triển thành ngày tưởng nhớ công đức cha mẹ cho tất cả mọi người Việt Nam. Thiết nghĩ, điều này cũng phù hợp với truyền thống của dân tộc ta từ xưa đến nay, vì việc nhớ ơn, báo hiếu là một truyền thống tốt đẹp không chỉ của những người con Phật mà còn là của chung toàn thể dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam, dù thuộc truyền thống tôn giáo nào hoặc không có tôn giáo, thì đều xem việc thờ cúng ông bà tổ tiên là một nghĩa cử cần thiết để thể hiện lòng hiếu thảo. Chính vì thế, một số người còn gọi đó là Đạo Ông Bà, hay là một truyền thống tâm linh gốc của dân tộc Việt Nam gắn liền với chữ Hiếu.

Để ngày Vu Lan có thể trở thành ngày Hiếu thảo của dân tộc, ngày nhớ ơn công đức sinh thành dưỡng dục cho đúng nghĩa, chúng ta cần một cái nhìn rộng hơn và một ít điều chỉnh về những thói quen và suy nghĩ của mọi người về ngày lễ này:

1/ Tục lệ bông hồng cài áo: đây là 1 tục lệ rất đẹp được du nhập từ truyền thống của người Nhật Bản, vào ngày Mother’s Day, những người còn mẹ thường được cài lên áo một bông hoa đỏ, những người mất mẹ thì cài lên áo bông hoa trắng để mỗi người nhận thấy được sự có mặt của mẹ trên đời là rất thiêng liêng. Thế nhưng, nếu áp dụng rập khuôn như thế, chúng ta vô tình quên mất rằng, để có mặt trên đời này thì không chỉ có mẹ mà còn cần phải có người cha nữa, vì vậy nên chăng, tục lệ này nên điều chỉnh một chút để thể hiện được sự cân bằng này. Chẳng hạn, hoa hồng đỏ chỉ cài lên ngực áo những người con mà cha mẹ vẫn còn sống, và hoa hồng trắng dành cho những người con mà cha hoặc mẹ đã qua đời. Làm như vậy để lòng hiếu được thể hiện trọn vẹn y‎ nghĩa của nó, bởi vì công cha hay nghĩa mẹ đều to lớn và cao cả như nhau, nếu chẳng may mất cha hay mẹ thì đều là mất mát to lớn cả.
“Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”

2/ Nên hướng tới người sống nhiều hơn người chết: có lẽ vì ngày lễ Vu Lan bắt nguồn từ truyền thuyết ngài Mục Kiền Liên muốn cứu mẹ chịu tội khổ trong địa ngục, nên ngày lễ này thường gắn liền với việc cầu siêu, cúng cô hồn, và chăm lo cho người thân đã mất nhiều hơn. Tuy nhiên, ta biết rằng, sự hiếu thảo của người con đối với cha mẹ cần phải được thể hiện qua những lời nói, hành động cụ thể, đặc biệt là khi cha mẹ còn sống, để người vui lòng và cảm nhận được lòng biết ơn của con cái đối với mình. Những việc làm hiếu thảo cụ thể như: thường xuyên quan tâm thăm hỏi, giúp đỡ cha mẹ về vật chất và tinh thần, chăm sóc những lúc đau ốm bệnh tật… Tôi còn nhớ một bài thơ dịch từ tiếng Anh nói lên mong muốn của người mẹ được đón nhận tình cảm yêu thương từ người con, như sau:
“Nếu có bao giờ con yêu mẹ
Thì hãy yêu khi mẹ còn đây
Còn biết được những lời tình cảm
Ngọt ngào êm dịu đến cuồng say
*
Hãy yêu đi khi mẹ còn biết
Đừng để đến lúc mẹ ra đi
Ghi lời yêu dấu lên bia đá
Mỹ từ lên phiến đá vô tri
*
Hãy nói lên lời con muốn nói
Đừng để đến lúc mẹ ngủ say
Một giấc ngủ chẳng bao giờ dậy
Ngàn năm ngăn cách chẳng ngày mai…”

Đó là vài suy nghĩ về ‎y nghĩa cao đẹp của ngày Vu Lan báo hiếu trong đạo Phật, và mong rằng ngày này sẽ trở thành một ngày lễ chung để tưởng nhớ công ơn cha mẹ cho mọi người Việt Nam. Sao cho, cứ đến ngày này, mỗi người Việt Nam đều lắng lòng để tưởng nhớ đến cha mẹ mình, những gian lao vất vả của hai đấng sinh thành, đã cho ta có mặt trên cuộc đời này, nuôi ta lớn khôn, dạy ta nên người và sẳn sàng hy sinh cả cuộc đời vì tương lai và sự nghiệp của chúng ta. Ơn đức ấy, công lao ấy rất to lớn, rất cần được trân trọng và tưởng nhớ, dù chỉ một ngày trong năm. Để mỗi người con có dịp biểu hiện lòng hiếu kính của mình đối với cha mẹ, nếu cha mẹ còn sống thì chăm lo thăm hỏi, hoặc nếu chẳng may cha mẹ đã qua đời, thì hãy làm những việc công đức để hồi hướng và cầu mong cha mẹ siêu sanh vào những cảnh giới an lạc. Mỗi chúng ta hãy cùng thắp nén tâm hương trong mùa vu lan cho hoa hiếu thảo được ngát hương và truyền thống Hiếu đạo của dân tộc được bảo tồn và phát triển.

Friday, August 14, 2009

Vài nét về lễ hội Obon của Nhật Bản

Gozan Okuribi (五山送り火)Image via Wikipedia

Obon (お盆) hay Bon (), còn được biết đến như là "Ngày của người chết", là một phong tục của người Nhật theo Phật giáo để tưởng niệm những người thân đã qua đời. Phong tục Phật giáo này đã phát triển thành ngày lễ đoàn tụ gia đình, là thời điểm mọi người trở về quê cha đất tổ để thăm viếng và chăm sóc, dọn dẹp phần mộ của tổ tiên. Đây cũng là thời điểm mà linh hồn của các người đã mất được phép trở về thăm con cháu. Lễ hội này, còn được gọi là Lễ hội của những con thuyền, đã được tổ chức ở Nhật hơn 500 năm và thường gắn liền với 1 điệu múa dân gian, có tên là Bon-Odori.

Lễ hội Obon kéo dài trong 3 ngày, tuy nhiên ngày bắt đầu có khác biệt đôi chút ở những vùng khác nhau của Nhật Bản. Khi người Nhật bỏ âm lịch để chuyển sang sử dụng dương lịch vào đầu thời kỳ Minh Trị, việc điều chỉnh tương ứng ở các địa phương có sự khác biệt, dẫn đến 3 thời điểm khác nhau cho ngày Obon. "Shichigatsu Bon" (Bon tháng bảy) thì tổ chức vào ngày 15 tháng 7 dương lịch ở các vùng như Tokyo, Yokohama và Tohoku. "Hatchigatsu Bon" (Bon tháng tám) thì tổ chức vào ngày 15 tháng 8 dương lịch, và là thời điểm chung nhất ở khắp nước Nhật. "Kyu Bon" (Bon cũ) được tổ chức vào ngày 15 tháng 7 âm lịch ở các vùng như phía bắc Kanto, Chugoku, Shikoku, và các đảo ở phía tây nam. Những ngày này không được xem là ngày nghỉ lễ chính thức ở Nhật Bản, nhưng theo phong tục người dân vẫn được cho phép nghỉ.

Obon có một số nét tương đồng với lễ kỷ niêm của người Mexico có tên là el Día de los Muertos, như là những phong tục liên quan đến đoàn tụ gia đình và chăm sóc mộ phần tổ tiên.

Obon là dạng viết tắt của Ullambana
(Japanese: 于蘭盆會 or 盂蘭盆會, urabon'e). Nó có nguồn gốc từ tiếng Sanskrit có nghĩa là "treo ngược lên" và chỉ đến một sự giải thoát to lớn. Người Nhật tin rằng ngày này những người chết có thể được thoát khỏi cảnh khổ của việc bị treo ngược trong địa ngục do những tội ác từ đời trước.

Bon Odori bắt nguồn từ câu chuyện về Mục Kiền Liên (Mokuren), một đệ tử của đức Phật, người đã sử dụng thần thông của mình để tìm kiếm mẹ của mình. Ông đã nhìn thấy mẹ mình bị rơi vào cảnh giới quỷ đói và đang chịu khổ. Rất đau khổ, ông tìm đến Phật và hỏi ngài cách để cứu mẹ khỏi địa ngục. Phật đã hướng dẫn ông dâng cúng lễ vật lên chư tăng, những vị vừa hoàn tất 3 tháng an cư kiết hạ, vào ngày 15 tháng 7. Vị đệ tử đã làm theo và nhờ đó, đã nhìn thấy mẹ mình được giải thoát. Ông cũng thấy được bản chất rộng rãi thật sự của mẹ mình và những hy sinh to lớn mà bà đã dành cho ông. Ông cảm thấy hạnh phúc vì mẹ mình đã được giải thoát và biết ơn công lao của mẹ mình nên đã nhảy múa một cách vui mừng. Điệu múa Bon Odori bắt nguồn từ hành động nhảy múa vui vẻ này, đó là thời điểm mà những tổ tiên và sự hy sinh của họ được tưởng nhớ và trân trọng. Xem thêm: Kinh Vu Lan Bồn (Ullambana Sutra)

Vì lễ hội Obon thường diễn ra trong cái nóng của mùa hè, những người tham dự thường mặc trang phục truyền thống yukata, một loại kimono với chất liệu vải mỏng và mát. Có rất nhiều hoạt động trong lễ hội Obon, như là: các cuộc đi chơi ngoài trời, các trò chơi dân gian, và nhiều món ăn mùa hè, đặc biệt là dưa hấu.

Lễ hội kết thúc với nghi thức Toro Nagashi , hay thả các thuyền giấy. Các con thuyền bằng giấy được xếp và thả theo các con sông như là biểu tượng để tiễn đưa linh hồn những người quá cố trở về thế giới của họ. Lễ hội này thường kết thúc với những đợt biểu diễn bắn pháo bông rất đẹp mắt.

(Nguồn: wikipedia.org)
Reblog this post [with Zemanta]

Sunday, July 19, 2009

Chấn hưng Giáo dục để nâng cao Năng lực cạnh tranh của Việt Nam

Chấn hưng Giáo dục để nâng cao Năng lực cạnh tranh của Việt Nam

ThS. Phạm Quốc Trung, Khoa QLCN. ĐHBK Tp.HCM

Đọc tựa đề, có lẽ mọi người sẽ cho rằng đây chỉ là ‎quan điểm chủ quan của tác giả nhằm nhấn mạnh vai trò của Giáo dục, chứ đâu thấy mối liên quan trực tiếp nào giữa Giáo dục và Năng lực cạnh tranh quốc gia. Nghĩ như thế là hoàn toàn sai lầm, vì nếu xem xét kỹ trong chỉ số về Năng lực cạnh tranh quốc gia, ta sẽ thấy trong đó có hai thành phần quan trọng là Giáo dục và KHKT. Vì vậy, đây là những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp lên năng lực cạnh tranh của mỗi nước. Đặc biệt, yếu tố cản trở nhiều nhất đến việc cải thiện năng lực cạnh tranh của Việt Nam hiện nay theo thống kê chính là yếu tố Giáo dục.

Trước tiên, chúng ta hãy xem biểu đồ sau:

Đây là biểu đồ so sánh năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam và 1 số nước xung quanh. Bảng xếp hạng này được tham khảo từ Trung Tâm Nghiên cứu Kinh tế Nhật Bản (http://www.jcer.or.jp/ ), trong đó sắp hạng 50 nước được quan tâm nghiên cứu.

Trong bảng xếp hạng này, dễ dàng nhận thấy, gần 30 năm qua năng lực cạnh tranh của Việt Nam không hề có tiến bộ, chỉ dao động ở ngưỡng 48 hoặc 49. Nếu so sánh với một số nước xung quanh, thì chỉ có Ấn Độ là bạn đồng hành với Việt Nam ở thứ hạng này. Nước có tiến bộ vượt bậc về năng lực cạnh tranh phải kể đến Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc. Còn Singapore luôn ở thứ hạng rất cao trong bảng sắp hạng này, nên không nói tới ở đây. Nước có năng lực cạnh tranh đi xuống gồm có PhilippinesIndonesia.

Như vậy, nếu nhìn vào bảng xếp hạng này, ta thấy Việt Nam nếu muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thì nên học tập theo tấm gương của Malaysia và Thái Lan vì các nước này cùng trong khối Đông Nam Á và có hoàn cảnh, năng lực và quy mô gần giống với Việt Nam.

Nếu xét kỹ hơn về các thành phần của chỉ số Năng lực cạnh tranh này, ta sẽ thấy rõ hơn bức tranh phát triển của Việt Nam trong 30 năm qua theo nhiều khía cạnh, và từ đó tìm ra được điểm yếu nhất để tập trung khắc phục.

Hãy nhìn vào biểu đồ chi tiết sau:

Biểu đồ trên so sánh thứ hạng của các yếu tố trong Năng lực cạnh tranh của Việt Nam theo thời gian, từ 1980 đến nay. Các yếu tố chính này gồm có: Hợp tác quốc tế (Internationalization), Doanh nghiệp (Enterprises), Giáo dục (Education), Tài chính (Finance), Chính phủ (Government), KHKT (Science&Technology), Hạ tầng (Infrastructure) và CNTT (IT).

Dựa vào biểu đồ này, ta nhận thấy, Năng lực cạnh tranh chung của Việt Nam không thay đổi từ 1980 đến nay không phải do các yếu tố trên không thay đổi, mà bởi có những yếu tố phát triển đi lên, nhưng đồng thời cũng có những yếu tố tụt hậu đi xuống, khiến cho chỉ số chung không thể tăng như mong muốn.

Vậy yếu tố nào đã kéo Năng lực cạnh tranh của Việt Nam tụt lại? Nhìn vào biểu đồ, dễ dàng thấy ngay đó chính là yếu tố Giáo dục (từ thứ hạng 24 năm 1980 đã tụt xuống thứ hạng 46 năm 2008). Ngoài ra, KHKT của Việt Nam chưa bao giờ được đánh giá mạnh so với các nước (luôn đứng cuối bảng từ 1990 tới nay). Tuy nhiên, đây lại là hai yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến con người, đến đội ngũ lao động, kỹ sư, các nhà khoa học… từ đó ảnh hưởng đến các yếu tố khác của sự phát triển. Điều này lí giải tại sao, Việt Nam mặc dù có nhiều tiến bộ ở các lĩnh vực như: Hợp tác quốc tế, tăng số lượng và vai trò của các loại hình DN, cải cách tài chính, phát triển cơ sở hạ tầng, nhưng không nâng được chỉ số năng lực cạnh tranh chung.

Tại sao phải tập trung vào Giáo dục, thay vì các yếu tố khác cũng yếu kém, như: CNTT, Năng lực điều hành của Chính phủ, KHKT… Lí do chính là khi nhìn vào biểu đồ trên, ta thấy rằng tiềm lực về Giáo dục ở nước ta khá mạnh so với các lĩnh vực còn lại, vì ở những năm 1980, nước ta đã có thứ hạng khá cao về Giáo dục (hạng 24/50), trong khi đó CNTT, Chính phủ, KHKT đều nằm ở những thứ hạng thấp trong suốt gần 30 năm qua. Vì vậy, một khi được đầu tư xứng đáng, thay đổi tư duy quản lí lạc hậu, tạo điều kiện phù hợp cho sự sáng tạo và đổi mới phương pháp giáo dục… thì khả năng khôi phục lại vị trí xứng đáng của giáo dục Việt Nam là rất cao.

Từ phân tích trên, ta thấy rằng, để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế, việc tập trung đầu tư cho phát triển giáo dục, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và ứng dụng KHKT vào cuộc sống phải là ưu tiên hàng đầu, dùng nó làm đòn bẫy cho cả nỗ lực phát triển của xã hội.

Hơn nữa, xã hội loài người đang bước vào làn sóng thứ 3 của sự phát triển, làn sóng thứ 1 là thời đại Nông nghiệp, sự giàu có đặt trên việc sở hữu đất đai, làn sóng thứ 2 là thời đại Công nghiệp, sự thịnh vượng dựa trên sự sở hữu vốn tư bản, và làn sóng thứ 3 là thời đại Tri thức, sự thịnh vượng đặt trên việc sở hữu tri thức và khả năng sử dụng tri thức để tạo ra và cải tiến các sản phẩm và dịch vụ (theo Savage C., “Fifth Generation Management”). Chính vì vậy, ở thời đại này, quốc gia nào tạo được nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển giáo dục, thu hút nhiều nhân tài hơn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước thì sẽ có được vị thế cao trong cộng đồng quốc tế.

Ngày nay, nước ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước để theo kịp đà phát triển của thế giới, việc nâng cao vị thế đất nước để hội nhập với xu hướng phát triển chung của nhân loại trong nền kinh tế tri thức là một nhu cầu vô cùng cấp bách. Điều này, đòi hỏi những chính sách đúng đắn của chính phủ trong việc phát huy các điểm mạnh hiện tại, khắc phục những yếu kém, bất cập trong hai lĩnh vực Giáo dục và KHKT, tiếp tục phát triển hơn nữa hạ tầng cơ sở và IT để tạo thuận lợi cho các yếu tố khác phát triển.

Trong thời đại tri thức, hơn lúc nào hết, Việt Nam cần phải tạo được môi trường thuận lợi cho Giáo dục đào tạo và NCKH, để từ đó nâng cao trình độ giáo dục chung của toàn dân. Chính phủ và ngành giáo dục cần chú trọng vào việc tạo ra và đáp ứng đủ nhu cầu về đội ngũ kỹ sư, công nhân tri thức, khoa học gia có đủ chất lượng, có khả năng tiếp thu tri thức của thế giới, ứng dụng vào thực tiễn công việc, sáng tạo và đóng góp và kho tàng tri thức chung của nhân loại. Ngoài ra, các nhà làm chính sách phải tạo được chế độ sử dụng và đãi ngộ hợp lí với đội ngũ lao động tri thức, bất kể nguồn đào tạo, nhà nước phải thể hiện thực tâm giữ và thu hút người tài, dù ở ngoài nước hay trong nước, vào những dự án, chương trình lớn của quốc gia. Làm được như vậy, Việt Nam đã chuẩn bị cho mình những điều kiện rất tốt để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đồng thời đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển chung của thế giới trong thế kỷ 21.

Wednesday, July 15, 2009

Take time

TAKE TIME

Take time to work—It is the price of success.
Take time to think—It is the source of power.
Take time to play—It is the secret of perpetual youth.
Take time to read—It is the fountain of wisdom.
Take time to be friendly—It is the road to happiness.
Take time to love and to be loved—It is nourishment for the soul.
Take time to share—It is too short a life to be selfish.
Take time to laugh—It is the music of the heart.
Take time to dream—It is hitching your wagon to a star.

DÙNG THỜI GIAN

Dùng thời gian để làm việc - đó là cái giá cho sự thành công.
Dùng thời gian để suy nghĩ - đó là nguồn của sức mạnh.
Dùng thời gian để chơi - đó là bí quyết của sự trẻ mãi.
Dùng thời gian để đọc - đó là suối nguồn của trí tuệ.
Dùng thời gian để kết bạn - đó là con đường đến hạnh phúc.
Dùng thời gian để yêu và được yêu - đó là sự nuôi dưỡng tâm hồn.
Dùng thời gian để chia sẻ - vì cuộc đời quá ngắn đâu cần ích kỷ.
Dùng thời gian để cười - đó là âm nhạc của trái tim.
Dùng thời gian để mơ - sẽ không đủ thời gian để mà mơ mộng...

Bạn thường sử dụng thời gian của mình để làm gì ?

Saturday, July 4, 2009

Giá trị của niềm tin trong việc xây dựng xã hội VN ngày nay

Giá trị của niềm tin trong việc xây dựng xã hội VN ngày nay

Xã hội VN ngày nay có nhiều vấn đề cần phải giải quyết, nhiều vấn nạn cần phải khắc phục để đất nước có thể phát triển bền vững trong lộ trình đi lên và hòa nhập với thế giới. Vậy thì trong các vấn đề đó, đâu là vấn đề nghiêm trọng nhất cần phải tập trung cải thiện trong việc xây dựng đất nước hiện nay? Theo tôi, vấn đề quan trọng nhất đó là vấn đề khủng hoảng niềm tin.

Tại sao tôi lại cho là việc thiếu niềm tin là vấn đề nghiêm trọng nhất? Bởi nhìn vào xã hội ngày nay, ta thấy rất nhiều lo lắng, bất an, sợ hãi, nghi kỵ, ngờ vực, đề phòng… Mà tất cả những điều đó đều là biểu hiện của 1 nguyên nhân chung, đó là thiếu niềm tin lẫn nhau, thiếu niềm tin vào một giá trị đạo đức vĩnh hằng. Xin các bạn đừng nghĩ tôi muốn nói đến niềm tin tôn giáo ở đây, đơn giản chỉ là niềm tin vào con người, niềm tin vào một lí tưởng cao đẹp mà thôi.

Trước tiên, niềm tin là sự tin tưởng vào một ai đó, một việc gì đó, và cho rằng ai đó, việc gì đó là đúng bất chấp những lung lạc bên ngoài. Như vậy, khi nói đến niềm tin, chúng ta thấy có 2 đối tượng: người tin, và đối tượng được tin, nếu đối tượng được tin là con người thì đó phải là niềm tin 2 chiều, khi A tin B và B cũng tin A thì giá trị niềm tin mới được thiết lập.

Nhìn trong gia đình, nếu vợ chồng tin tưởng nhau, anh em tin tưởng nhau, cha con tin tưởng nhau… thì gia đình đó êm ấm biết mấy, hạnh phúc biết mấy. Rộng ra ngoài xã hội, nếu người chủ - người lao động tin tưởng nhau, xóm giềng tin tưởng nhau, nhà nước – nhân dân tin tưởng nhau thì xã hội thái bình, ai nấy cũng yên tâm làm việc, không còn những nghi ngờ, sợ hãi, lo lắng nữa.

Khi ta đã tin vào ai đó hay điều gì đó thì rất khó ai có thể thay đổi niềm tin này. Vì vậy điều quan trọng là cần phải đặt niềm tin đúng người và đúng chỗ. Niềm tin nếu đặt đúng đối tượng có thể là động lực để chúng ta hành động và vượt qua nhiều khó khăn trở ngại. Tuy nhiên, nếu niềm tin đặt sai chỗ, có thể khiến chúng ta trở nên mù quáng và hành động sai lầm hoặc suy sụp một khi nhận ra mình đã tin tưởng không đúng. Lịch sử đã từng chứng minh điều này, chẳng hạn: trong cuộc kháng chiến chống Mông Cổ dưới thời nhà Trần, nhờ tin tưởng vào tài lãnh đạo quân sự của Trần Hưng Đạo và sức mạnh kháng chiến của toàn dân, mà quân dân Đại Việt đã 3 lần đánh thắng đội quân hung hãn Nguyên Mông lúc bấy giờ; ngược lại, trong thời cận đại, triều đình nhà Nguyễn đã không tin vào khả năng chiến đấu của dân chúng, không tin rằng nước mình vào thời điểm đó đã quá lạc hậu về KHKT cũng như quân sự, cần phải thay đổi, học tập, phát triển, nên đã dẫn đến hậu quả là 100 năm Pháp thuộc.

Biết rằng niềm tin là vô cùng quan trọng để tạo nên sức mạnh thần kỳ, phi thường, điều này rất cần thiết trong giai đoạn đất nước đang chuyển mình như hiện nay. Nhưng điều khó khăn nhất đó là làm sao để thiết lập niềm tin của xã hội? Làm sao biết nên tin vào ai hay vào điều gì trong cái xã hội đảo điên, nhiều dối trá, lừa lọc này?

Vấn đề này đòi hỏi một nỗ lực mạnh mẽ và lâu dài của cả xã hội, nhưng việc dù khó mấy, nếu quyết tâm thì cũng có thể thực hiện được, chỉ cần có phương pháp đúng đắn. Giải pháp có vẻ cũng rất đơn giản, đó là đặt mọi giá trị trên nền tảng của Sự Thật, những giá trị đạo đức chung nhất phải được khôi phục, xây dựng, đề cao những tấm gương đạo đức trong xã hội. Cụ thể là: phải tôn trọng sự thật, mọi việc phải có luật lệ rõ ràng cụ thể, nhìn vào đó có thể dễ dàng phân biệt đúng sai, thật giả; dùng thật tâm để giải quyết công việc, không dối trá, quanh co, trách nhiệm và quyền lợi phải đi đôi, khi phát hiện giả dối phải nghiêm phạt; đề cao phẩm chất đạo đức, và những con người biết tôn trọng các giá trị và phẩm chất chung ấy, phát huy vai trò của các tổ chức dân sự, tôn giáo, phi chính phủ trong việc nêu cao tấm gương đạo đức, vì luật pháp chỉ ngăn được cái xấu ở bên ngoài, còn ‎niềm tin vào đạo đức có thể ngăn được cái ác bên trong mỗi con người.

Để làm được việc này, trước tiên đòi hỏi quyết tâm của toàn xã hội, kế đến là việc cụ thể hóa quyết tâm này bằng những chính sách, quy định của nhà nước và cuối cùng là những con người cụ thể, những nhà lãnh đạo có tài có đức, những công dân ở đủ mọi tầng lớp, ngành nghề… là những tấm gương sáng cho cả xã hội noi theo.

Xã hội vững, bởi càng tin cậy

Muốn tin nhau, phải lấy thực tâm

Lời ngay, tin tưởng nảy mầm

Đồng lòng, đồng sức, ngàn năm thái bình…

Vì vậy, để khắc phục những vấn nạn của xã hôi trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay, đòi hỏi một quyết tâm to lớn nhằm khôi phục lại niềm tin giữa mọi người trong xã hội, niềm tin vào 1 lí tưởng cao đẹp và tương lai tươi sáng của đất nước. Niềm tin đó phải được đặt trên cơ sở đề cao sự thật, lời nói và việc làm phải thực tâm và trân trọng các giá trị đạo đức cao đẹp trong xã hội.

Trước khi kết thúc bài viết, xin mời các bạn hãy cùng tôi đọc 1 bài thơ với tựa đề “Sáng một niềm tin” và mong rằng đất nước VN sẽ mau chóng cất cánh khi giá trị niềm tin được khôi phục trong lòng mỗi con người.

Sáng Một Niềm Tin


Giữa bể khổ trần gian

Giữa gian trá muôn vàn

Niềm tin luôn tỏa sáng

Sưởi ấm cõi mênh mang

*

Niềm tin vào lẽ phải

Vào chân lý không hai

Thiện phải luôn thắng ác

Niềm tin đó không lay

*

Dẫu muôn ngàn gian khổ

Dầu gian hiểm rình vồ

Chẳng làm sao lay chuyển

Niềm tin giữa hư vô

*

Niềm tin còn sáng mãi

Vượt qua nỗi đau dài

Thời gian như đọng lại

Nở bừng trong sớm mai.

Wednesday, June 17, 2009

Hung Dao Vuong


Ba lần đánh bại quân Nguyên
Nước nhà nhớ mãi gương hiền thánh nhân
Hưng Đạo Vương thuở nhà Trần
Chiến công vang dội, bao lần lập công
Nguyên Mông dù mạnh, đừng hòng
Quân dân Đại Việt, một lòng sắt son
Diên Hồng, dấu vết vẫn còn
Hịch xưa (*) vang dội, cháu con giữ gìn
Thánh Trần, sáng mãi niềm tin
Trong lòng dân tộc, quê mình ngàn năm
Linh thiêng, khí phách - âm thầm
Hộ dân, hộ quốc, bao năm vững bền,
Sử xanh còn mãi khắc tên,
Cháu con vẫn mãi dựng đền – ghi công,
Gương xưa, nhớ mãi trong lòng
Anh hùng dân tộc, núi sông nghiêng mình…



(*) HỊCH TƯỚNG SĨ

"Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?

Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Điếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu! Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!

Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da quân giặc, nuốt gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.

Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?

Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?

Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?

Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.

Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?

Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta."

Saturday, June 6, 2009

Không sợ hãi

Hồi còn nhỏ, khi xem bộ phim Tây Du Ký, tôi rất thích nhân vật Tôn Ngộ Không hay còn gọi là Tề Thiên Đại Thánh. Trong trí óc non nớt của lũ trẻ bon tôi lúc bấy giờ thì hễ khi có yêu quái hoặc bất kỳ khó khăn trở ngại cản bước thầy trò Đường tăng đi thỉnh kinh, thì chỉ cần Tôn Ngộ Không xuất hiện thì mọi sợ hãi đều tan biến, mọi khó khăn đều dễ dàng vượt qua.

Sau này, khi lớn hơn, có chút hiểu biết về Phật pháp, mỗi khi gặp khó khăn, bất an trong cuộc sống, tôi thường nghĩ tới hình ảnh của Bồ tát Quán thế âm, vị đã phát lời nguyện cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh ở cõi Ta bà. Khi niệm danh hiệu Ngài, tôi thường cảm thấy bình tĩnh, không còn sợ hãi, sáng suốt đối phó với những nghịch cảnh và thường dễ dàng vượt qua. Người đời thường gọi ngài là Bồ tát Vô úy, nghĩa là ban tặng sự Không sợ hãi cho những ai nhớ nghĩ đến ngài. Tôi lại thấy rằng không phải Bồ tát ban phép, mà chính năng lực Vô úy trong mỗi chúng ta sẽ là sức mạnh giúp mình vượt qua mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. Tôn Ngộ Không hay Bồ tát Quán Thế Âm chỉ là hình tượng để giúp chúng ta tự tin và khôi phục năng luợng Vô Úy trong mỗi người, từ đó, có thể nhìn rõ thực tại, đối phó với mọi khủng bố, vượt qua mọi thử thách một cách bình tĩnh và đi tới phía trước.

KHÔNG SỢ HÃI

Sợ hãi làm ta mất trí khôn
Cúi đầu, nhắm mắt – sống vô hồn
Vô tình, trước cảnh đời đau khổ
Hững hờ, mặc vận nước sinh tồn.

Sợ hãi từ đâu xâm chiếm ta
Che đi ánh sáng – vốn chan hòa
Giết ta, trong lúc còn đang sống
Chẳng phải từ ngoài, tự chính ta

Vô minh, bóng tối phủ thế gian
Đem theo sợ hãi, bởi bạo tàn
Chúng xây thế giới bằng máu lửa
Bởi thế, yêu ma mới ngập tràn

Bình tĩnh, ngẩng đầu, mắt mở to
Định tâm kiên cố, sẽ không lo
Niềm tin tất thắng bao cuồng sợ
Vén bỏ mây đen – ánh sáng lòa…

Monday, May 18, 2009

Phát triển bền vững và Bài tóan Bôxit

Phát triển bền vững:
Kinh nghiệm thế giới và Bài toán Bôxít Việt Nam

Trong giai đoạn vừa qua chúng ta cũng đã nghe rất nhiều phản biện xã hội về dự án Bôxít ở Tây Nguyên, Việt Nam. Đa số các ‎y kiến đã phản ánh về nhiều khía cạnh bất lợi của dự án. Chính phủ sau khi nghe các góp y cũng đã hứa hẹn sẽ xem xét thí điểm dự án, và sẽ không khai thác bằng mọi giá. Tuy nhiên, những động thái gần đây về việc triển khai dự án khiến những người quan tâm lo lắng về quyết tâm “khai thác bằng mọi giá” của giới làm chính sách ở Việt Nam, thể hiện ở việc không đưa ra thời hạn thí điểm dự án, không chỉ định cơ quan kiểm tra, giám sát trực tiếp, cũng như không đưa vấn đề ra bàn bạc, thảo luận trước quốc hội.

Bài viết này muốn xoay quanh khái niệm phát triển bền vững để giúp những người quan tâm nhận thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề quy họach phát triển kinh tế, mà có những hành động đúng đắn, mang lại sự phát triển bền vững cho đất nước và tránh đi vào vết xe đổ của các nước đã phát triển, để lại những nguy hại lâu dài cho mai sau.

1. Ngày nay, chúng ta thường nghe nói nhiều đến cụm từ “Phát triển bền vững” trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Phát triển bền vững đòi hỏi chúng ta phải chú ‎y nhiều đến môi trường sống, đến các giá trị xã hội và nhân văn của quá trình phát triển thay vì chỉ chú trọng đến lợi nhuận, khai thác cạn kiệt tài nguyên, bất chấp những ô nhiễm môi trường hay các tác hại về văn hóa, xã hội khác. Để có được sự phát triển bền vững đòi hỏi các chính phủ, doanh nghiệp và cá nhân phải tốn nhiều thời gian, công sức, tiền bạc hơn trong việc khai thác, sản xuất, phân phối và tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ. Chẳng hạn, chính phủ phải cân nhắc nhiều hơn trong việc đưa ra các tiêu chuẩn, thiết lập các cơ chế kiểm soát đầy đủ hơn; doanh nghiệp phải hoàn thiện các hệ thống xử ly chất thải ra môi trường, phải hạn chế các quá trình chế tác tiêu tốn năng lượng và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe công nhân và cộng đồng xung quanh; cá nhân phải chọn lọc sản phẩm tiêu thụ, kiểm soát các loại rác thải…
  • Tại sao xã hội ngày nay lại đề cao phát triển bền vững mặc dù nó đòi hỏi nhiều nổ lực xã hội và tốn kém chi phí nhiều hơn ? Bởi đó là bài học xương máu mà các nước phát triển đã trải qua và rút ra được trong quá trình công nghiệp hóa, do chú trọng phát triển bằng mọi giá mà bất chấp các tác hại môi trường và xã hội.
  • Lấy Nhật Bản làm ví dụ, để có được một xã hội Nhật phát triển và biết chú trọng đến vấn đề môi trường như ngày nay, họ cũng đã từng trãi qua kinh nghiệm về những thành phố chết chóc vì ô nhiễm, những dòng sông chứa đầy chất thải công nghiệp, và những hệ lụy về sinh thái, môi trường nghiêm trọng khi họ quyết tâm phát triển mà bất chấp sự mất cân bằng về sinh thái hay môi trường sống. Xin tham khảo 1 đoạn video clip về phát triển bền vững ở Nhật Bản (http://www.youtube.com/watch?v=6MEFYiId74o&feature=channel_page)

  • Phát triển bền vững ở Châu Á : Malaysia và Việt Nam (BBC) (http://www.youtube.com/watch?v=QD2C8gAkav4&feature=related)

2. Ảnh hưởng ô nhiễm môi trường của các dự án Bôxít trên thế giới
  • Khai thác Bauxite ở Guinea: Từ thiên đường thành địa ngục (http://www.youtube.com/watch?v=M0pKBfZagU0)

  • Hủy hoại môi trường từ khai mỏ ở Jamaica – 6/2008 (http://www.youtube.com/watch?v=vJa2ftQwfNY)

  • Công nghiệp dơ bẩn - bộ lạc Vedanta (Ấn Độ) và Bauxite (http://www.youtube.com/watch?v=2yNh1mXUxzE)

  • Úc cảnh giác trước những dự án khai mỏ khổng lồ của TQ (http://www.youtube.com/watch?v=MqaC-NiwMUE)


3. Kỹ thuật xử l‎y bùn đỏ của TQ và uy tín của nhà thầu TQ
  • Bùn đỏ là chất thải của quy trình sản xuất nhôm từ quặng bôxit có lượng phát thải lớn và gia tăng đột biến khi thực hiện kế hoạch phát triển công nghệ sản xuất vật liệu nhôm. Hơn nữa nó có tính ô nhiễm nên còn là mối quan tâm của các nhà môi trường. Theo bài viết “Bã Thải Của Dây Chuyền Sản Xuất Nhôm Từ Quặng Boxitở Việt Nam – Các Phương Pháp Xử Lý” của Ths. Trần Minh Hải, “Ở Việt Nam, chưa có công nghệ xử lý bùn đỏ nào được áp dụng ở quy mô lớn trên thực tế, công nghệ còn phức tạp, hiệu quả thu hồi thấp, giá thành xử lý cao, không đạt hiệu quả kinh tế. Chưa có công nghệ nào có khả năng xử lý toàn bộ lượng thải bùn đỏ”.
  • Kỹ thuật xử ly bùn đỏ của nhà thầu TQ cũng là một vấn đề cần đặt ra. Nếu chúng ta biết rằng gần đây, Trung Quốc đã ra lệnh đóng cửa 100 mỏ bôxít vì gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, thì chúng ta không thể tin tưởng là nhà thầu TQ đã có thể giải được bài tóan ô nhiễm do bùn đỏ ở Tây Nguyên. Mỏ bôxit Nhữ An, TQ đã bị đóng cửa sau một năm hoạt động vì nguồn nước bị ô nhiễm nặng nề, cùng nhiều chứng bệnh lạ xuất hiện. Nước này cũng ra quy định các doanh nghiệp khai thác bôxit chính quy phải trả lại hiện trạng đất đai như ban đầu sau bốn năm khai thác, nếu không đáp ứng tiêu chuẩn này sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn. Xin tham khảo video clip với tựa đề “Công nghiệp TQ và cảnh ô nhiễm” (http://www.youtube.com/watch?v=jcr-KLBOhv8&feature=channel_page )

  • Ngòai ra, theo bài báo đăng trên tạp chí Wallstreet ra ngày 28/3/2009, với tựa đề “Chalco's 2008 Net Plunges” thông báo về tình hình hoạt động thua lỗ của công ty Chalco trong năm 2008. Được biết Chalco chính là nhà thầu TQ sẽ thực hiện dự án Bauxite ở Tây Nguyên, điều này càng làm tăng mối lo ngại về chất lượng công trình sẽ được triển khai bởi nhà thầu này trong giai đọan sắp tới.

Từ những thông tin về ô nhiễm môi trường gây ra bởi các dự án khai thác Bôxít ở khắp nơi trên thế giới, tác hại của loại bùn đỏ, một chất thải của quá trình khai thác này đến công nhân và người dân địa phương, cũng như những hoài nghi về khả năng xử ly chất thải ô nhiễm của TQ và lo ngại về cam kết bảo vệ môi trường của nhà thầu Chalco trong tình hình làm ăn thua lỗ hiện nay, khiến những người có trách nhiệm không thể thờ ơ bỏ qua tính chất thiếu bền vững của dự án khai thác Bô xít ở Tây Nguyên hiện nay.

Từ bài học kinh nghiệm trong phát triển kinh tế của các nước trên thế giới, những nhà làm chính sách ở nước ta cần phải cân nhắc thận trọng trước việc triển khai dự án khai thác Bôxít bằng mọi giá, mà không xem xét đến vấn đề khắc phục hậu quả. Hơn bao giờ hết, mục tiêu phát triển bền vững phải được đặt lên hàng đầu trong việc ra quyết định mang tính chiến lược quốc gia, nhất là nó đã được cảnh báo và can ngăn bởi nhiều nhà khoa học trong cả nước. Mong rằng những vị đại biểu nhân dân quan tâm đến vấn đề này một cách nghiêm túc và đem ra thảo luận trước quốc hội trong kỳ họp sắp tới.

5/2009 - Quốc Trung tổng hợp tư liệu từ nhiều nguồn trên Internet

Friday, May 8, 2009

PHẬT QUANG

PHẬT QUANG

Hào quang của Bụt sáng ngời
Nở bừng ánh sáng giữa đời khổ đau
Đẹp thay, pháp Bụt nhiệm màu
Khiến người giác ngộ, hồi đầu, chuyển tâm
Giúp người bể khổ, thăng trầm
Dừng tâm vọng niệm, trăng rằm sáng soi…

Sunday, May 3, 2009

Lễ Phật Đản

Lễ Phật Đản

(Source: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Phật Đản (zh. 佛誕; sa. Vaisakha; p. Visakha) là ngày kỷ niệm Đức Phật đản sanh tại vườn Lâm-tì-ni, năm 624 TCN, diễn ra vào ngày 15 tháng 4 âm lịch hàng năm. Theo truyền thống Phật giáo Đông Á ngày này chỉ là ngày kỉ niệm Phật đản sanh; tuy nhiên, theo Phật giáo Nam truyềnPhật giáo Tây Tạng thì ngày này là ngày Tam hiệp (Phật đản, Phật thành đạo và Phật nhập Niết-bàn). Trước năm 1959 các nước Đông Á, thường tổ chức ngày lễ Phật đản vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch[1]. Nhưng Đại hội Phật giáo thế giới lần đầu tiên, tại Colombo, Tích Lan, 25 tháng 5 đến 8 tháng 6 năm 1950, 26 nước là thành viên thống nhất ngày Phật đản quốc tế là ngày rằm tháng Tư âm lịch[2].

Vai hinh anh ve lich su Phat Thich Ca tu khi dan sinh, toi khi xuat gia, thanh dao va nhap Niet Ban.