Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)
Showing posts with label lichsu. Show all posts
Showing posts with label lichsu. Show all posts

Wednesday, March 22, 2023

Bốn cửa thành

Bốn cửa thành

 

Càng lớn lên, Tất Đạt Đa càng thông minh, học giỏi, và thương yêu mọi người, kể cả những con vật nhỏ bé. Tuy nhiên, lòng tốt và lòng thương người của thái tử làm nhà vua bối rối, luôn nghĩ đến lời tiên đoán của A Tư Đà. Nhà vua quyết định bằng mọi cách không để thái tử nhìn thấy những hình ảnh không vui, có thể làm thái tử từ bỏ những hoa lệ của cung đình vào ngày nào đó.

 

Nhà vua làm  mọi thứ để thái tử hạnh phúc, nhà vua nói với Hòang hậu Ba Xà Ba Đề,― Ta sẽ xây ba cung điện cho thái tử. Cái thứ nhất được làm bằng gỗ thơm, nó sẽ ấm cúng vào mùa đông. Cái thứ hai sẽ được xây bằng đá cẩm thạch, được dùng vào mùa hè. Cái thứ ba sẽ được xây bằng gạch, dùng cho mùa mưa. 

 

Để cuộc sống thoải mái, nhà vua ra lệnh làm một công viên đẹp có hồ nước dễ thương, có thiên nga và cá bơi tung tăng và hoa sen nở rộ. Nhà vua bảo người hầu ― Dọn sạch tất cả những bông hoa héo úa và những chiếc là rụng trong vườn. Nhà vua không muốn thái tử nhìn thấy bất kỳ điều không hài lòng nào. Tất cả người hầu trong cung điện đều trẻ, khỏe và đẹp. Những người phục vụ giải trí trong cung điện được lệnh ca hát và nhảy múa suốt ngày. Họ không được biểu lộ sự mệt mỏi hoặc buồn rầu. Không một người nào nói chuyện về bệnh tật và đau ốm. Vua ra lệnh xây các bức tường quanh cung điện. Lệnh cho lính canh chừngkhông để thái tử Tất Đạt Đa rời khỏi cung điện mà không có lệnh của vua.

Vào năm 16 tuổi, Thái tử tất Đạt Đa lập gia đinh với công chúa trẻ đẹp có tên là Da Du Ða  La. Công chúa yêu thương và chăm sóc cho thái tử. Thái tử tiếp tục sống cuộc sống vương gia gần 13 năm sau khi lập gia đình. Thái tử đã được bảo bọc để không biết được những khó khăn trong cuộc sống ở ngòai cung thành. Thái tử hoàn tòan hài lòng với cuộc sống tráng lệ của ngài. 

 

Sống trong thế giới không có gì ngoài hạnh phúc và tiếng cười. Tuy nhiên, một ngày kia, thái tử muốn khám phá những gì đang diễn ra bên ngoài cung điện. 

 

Khi nghe tin như vậy, nhà vua ra lệnh cho mọi người trong thành phố,― Tất cả nhà cửa dọc hai bên đường phải dọn dẹp và trang hoàng. Mọi người đốt trầm thơm và mặc áo quần màu sắc rực rỡ. Tất cả người xin ăn, người già và người ốm phải ở trong nhà cho đến khi thái tử trở về cung điện.

 

Người đánh xe trung thành của thái tử tên là Cha- Nac, đưa thái tử đi ra ngòai cung điện từ cổng phía Nam. Khi đám đông thành kính nhìn thấy thái tử yêu mến của họ, họ rải hoa và tung hô ngưỡng mộ. Tất Đạt Đa đã vui mừng thấy họ được hạnh phúc. 

 

Ngay lúc đó, một người già xuất hiện bên đường. Thái tử ngạc nhiên khi nhìn thấy một người già. Thái tử hỏi người đánh xe của mình, “Người gì mà tóc trắng và lưng gù như vậy? Mắt của ông ta lim dim, cơ thể của ông ta run lẩy bẩy. Ông ta bước đi bằng cách lê những bước chân khó nhọc theo cái gậy. Thân hình của ông ta bị thay đổi hay ông ta luôn có hình dạng như vậy? Hãy nói cho ta nghe, Cha-Nac”.

 

Cha-Nac tránh trả lời sự thật, “Đây không phải là việc của thái tử. Xin đừng bận tâm về chuyện đó”.

 

Thái tử vẫn khăng khăng hỏi Cha-Nac – “Chỉ có mỗi ông ấy như vậy? hay  tất cả chúng ta đều  như vậy?”

 

Lúc này, Cha-Nac chân thành trả lời, “Thưa ngài, chúng ta đều như vậy. Một khi thái tử còn trẻ, tóc sẽ đen và răng trắng. Thời gian trôi đi, thân thể sẽ già nua. Nó xảy ra với mọi người”. 

 

Nghe những lời này, thái tử giật bắn người. Tóc thái tử dựng ngược lên. Thái tử run vì sợ hãi, như con thú hoảng sợ khi thấy sấm chớp. Thái tử lắc đầu,― “Làm sao con người có thể vui sướng khi tuổi già hủy hoại tất cả?’ Thái tử nói với người đánh xe,― “Nhanh quay trở lại cung điện, biết rằng tuổi già sẽ gọi đến ta, làm sao ta có thể vui với núi rừng được”.

 

Vâng lệnh thái tử, Cha-Nac đánh xe nhanh như gió trở về cung điện.

 

Tất Đạt Đa không thể quên hình ảnh người già. Thái tử suy nghĩ suốt ngày đêm và không thể tìm ra đựoc sự thanh thản trong tâm hồn. Thái tử nói suy nghĩ của mình với Da Du Đa La, “Khi nhìn người già, tất cả những điều tốt đẹp trong thành phố dường như biến mất. Những nét đẹp và nụ cười trong cung điện không thực sự tồn tại với ta. Ta muốn đi thăm thành phố lần nữa để xem nó thực sự như thế nào. Để thấy người bình thường sống như thế nào”. 

 

Nhà vua không thể chịu nổi khi nhìn thấy con mình không vui, ngài đồng ý cho thái tử ra ngoài thành một lần nữa. Tất Đạt Đa và Cha-Nac đóng giả thành một thương nhân đánh xe đi vào thành phố theo hướng Đông. Lần đầu tiên thái tử thấy người bình thường sống thế nào trong vương quốc của mình. Thái tử thanh thản quan sát những người thợ rèn và những người làm đố sành sứ đang làm việc. Thái tử nói chuyện với với các thương nhân giàu có trong cửa hàng nguy nga của họ. Thái tử nói chuyện với những người thợ làm bánh mì. Đột nhiên, thái tử thấy nhìn thấy một người bị bệnh đang nằm dưới đất rên la và cúi gập người vì đau đớn. Thái tử đến bên ông ta và nâng đầu người đàn ông bị đau vào lòng, ― “Cha-Nac, chuyện gì đã xảy ra với người đàn ông này?”

Cha-nac vội vàng ― “Thưa ngài, đừng chạm vào ông ta! Ông ta bị bệnh truyền nhiễm. Hãy đặt ông ta nằm xuống nếu không thái tử sẽ bị nhiễm bệnh”. 

Thái tử lại hỏi ― “Chỉ có người đàn ông này bị bệnh hay tất cả mọi người đều bị bệnh như vậy, Cha-Nac? Vợ ta và cha ta cũng sẽ bị bệnh ư? »

 

Cha-Nac trả lời ― « Thưa Ngài, đó là điều tất nhiên xảy ra với mọi người. Mọi người trong thế gian đôi lần bị ốm. Bệnh tật xảy ra bất kỳ lúc nào trong cuộc đời ».

 

Nghe điều này, thái tử cảm thấy đau xót trong tim,― “Bệnh tật có thể đến bất cứ lúc nào. Như vậy chưa có ai có thể hạnh phúc và vui sướng”. Rồi thái tử vào xe ngựa, ra lệnh cho Cha-Nac quay trở về nhà. 

 

Tất Đạt Đa trở về cung điện với cảm giác nặng trĩu của sự thất vọng trong lòng. Khi thấy con trai buồn bã như vậy, nhà vua cho thái tử đi thăm công viên ở bên ngoài cung điện ở hướng Bắc. Trong lúc này, Tất Đạt Đa nhìn thấy một xác chết. Từ trước đến nay, Tất Đạt Đa không bao giờ nhìn thấy người chết, thái tử hỏi Cha-Nac, “Có gì bất thường với người này?”

Cha-nac đáp: “Thưa ngài, ông ấy đã chết. Ông ấy không còn cảm nhận điều gì nữa”.

Tất Đạt Đa hỏi, “Ta cũng như vậy? Con trai của nhà vua cũng sẽ chết như người đàn ông này?”

Cha-Nac trả lời ― “Vâng, mọi sinh  vật  đều phải chết. Không một người nào có thể tránh cái chết”.

Tất Đạt Đa vô cùng sửng sốt, thở dài, “Tất cả mọi người biết rằng họ sẽ chết, họ chưa bao giờ có cuộc sống bình yên”.

 

Thái tử ra lệnh người đánh xe trở về nhà. Đây không phải là lần đi chơi thoải mái. Cuộc sống có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào. Làm sao ta có thể vui sướng cho bản thân ta.

 

Tại cung điện, Tất Đạt Đa suy ngẫm về những điều đã thấy. Thật khủng khiếp để biết rằng mọi người sẽ chết vào ngày nào đó và không một người nào có thể tránh khỏi.

 

Bấy  giờ,  Tất Đạt Đa đã  biết con người bên ngoài cung điện sống thế nào. Những người ăn xin nằm dọc đường, xin thức ăn. Trẻ em  mặc những cái áo rách bươm đang rên la trên đường  phố. Người già, người bị bệnh và người nghèo đang chờ cái chết hiu quạnh. Trong khi, người giàu sống trong những ngôi nhà đẹp mà không chăm sóc cuộc sống người

nghèo.

 

Tất Đạt Đa tự hỏi, ― “Những người này có hy vọng gì khi sống? Thậm chí người giàu cũng đau khổ vì tuổi già, bệnh tật và cái chết. Mọi người sinh ra trong thế giới này đều phải đau khổ như vậy. Đau khổ của họ bắt đầu ngay từ lúc mới sinh. Ta phải tìm ra con đường để giúp họ ».

 

Trong chuyến đi thăm bên ngoài cung điện lần thứ tư, thái tử và Cha-Nac cưỡi ngựa đi qua cổng phía Tây. Họ đi ngang qua vị đạo sĩ mặc áo choàng rách rưới.  Nhìn thấy sự tỉnh lặng và thanh bình của đạo sĩ, thái tử hỏi, « Người này là ai? ».

Cha-Nac giải thích với thái tử, « Ông ta là một đạo sĩ đang hành đạo. Ông ta bỏ nhà cửa và nông trại và sự giàu có, Ông ta theo cuộc sống đơn giản và thanh bình cho bản thân ông ta. Ông ta hy vọng sẽ tìm ra chân lý và vượt qua những đau khổ trong thế giới này ».

Tất Đạt Đa, mỉm cười. ― « Ta sẽ trở thành tu sĩ  như ông ta. Đột nhiên, họ nhận được tin từ cung điện ― Công chúa vừa sinh hạ con trai cho thái tử! ». Tất Đạt Đa rất hạnh phúc khi nghe công chúa sinh hạ con trai, nhưng giờ đây, thái tử sẽ khó khăn hơn để thực hiện ước mơ trở thành đạo sĩ. Tên của người con trai là La Hầu La.


(Nguồn: Những mẩu chuyện Phật giáo dành cho thiếu nhi - tập 2 - Đức Kiên - NXB. Hồng Đức)

Sunday, November 1, 2020

Gương nhi nữ


Gương nhi nữ

Kỷ niệm lễ Hai Bà Trưng - mùng 6 tháng 2

Sầu nào hơn người dân mất nước
Buồn nào hơn nguyện ước không tròn
Tàn đêm một bóng mõi mòn
Hãi hùng từng khắc, chẳng ngon giấc nồng

Hung tin đến rằng - chồng đã thác
Gươm thiêng nào rạch nát lòng ta?
Ngẩn ngơ suối lệ chan hòa
Nửa đêm khấn nguyện, thù nhà khắc ghi

Giận thay kẻ cuồng si bạo ác
Chị cùng em gánh vác, chung lòng
Một bên là nợ núi sông
Một bên tình nghĩa vợ chồng nặng mang

Giận thay kẻ lòng lang dạ thú
Nỡ hại người không rủ lòng thương
Muôn dân khổ sở trăm đường
Thù nhà nợ nước, vấn vương bên lòng

Chị: Trưng Trắc, quyết mong rửa hận
Cùng họ Tô một trận sống còn
Trước là bảo vệ nước non
Sau là giữ vẹn lòng son cùng chồng

Em: Trưng Nhị, gánh gồng chung sức
Quyết vùng lên, đánh thức kẻ mê
Tàn quân chúng kéo nhau về
Tả tơi manh giáp, ủ ê mặt sầu

Thôi hết mộng, gồm thâu báu vật
Bắt dân Nam mò ngọc, tìm voi
Chỉ thua một trận mà thôi
Thế là danh tiếng đành trôi theo dòng

Ba xuân chẳn, một lòng dựng nước
Chị cùng em, nguyện ước vuông tròn
Tô bồi xây đắp giang sơn
Cho người oan thác không hờn tủi riêng

Xuân năm ấy, hồn thiêng liệt nữ
Thề cùng nhau vẹn giữ tiết danh
Gương xưa truyền tụng sử xanh
Trên dòng sông Hát uy danh sáng ngời

Đôi liệt nữ, đời đời sống mãi
Đêm Mê Linh, khúc khải hoàn ca
Còn vang dội khắp gần xa
Người người ghi nhớ, hai bà nghìn năm

Vân Hà (TTHA)

Thursday, April 4, 2019

Cảm niệm vua Hùng

Cảm niệm vua Hùng

Ngày giỗ tổ nhớ công người dựng nước
Sử Văn Lang - cổ tích vẫn còn đây
Bầy chim Việt quay về cùng nguyện ước
Lễ vua Hùng, cảm tạ đức ơn dầy

Nòi Bách Việt bốn ngàn năm đã trãi
Chống xâm lăng, cùng xây dựng non sông
Máu đã đổ, mồ hôi người đã chảy
Trên giang sơn, tổ quốc giống Tiên Rồng

Thật tủi hổ - lũ cháu con khờ dại
Để nước Việt nay xơ xác tơi bời
Sông núi đó, chúng đua nhau phá hoại
Để mặc ngoại bang ngang ngược biển khơi!

Mong tiên tổ, hồn thiêng về phù hộ
Bảo hộ muôn dân, làm cuộc chuyển dời
Hiển bày phép, rưới xuống mưa cam lộ
Văn hiến phục hồi, hoa trái tốt tươi...

Hãy nổi trống, tiếng trống đồng muôn thuở
Xua ngoại xâm, cùng ma quỷ bốn phương
Nắm tay lại, kìa thời cơ đã mở
Đoàn kết nhau, chim Việt hãy lên đường...

PQT (4/2019)







Monday, March 18, 2019

Trên ải Chi Lăng

Trên ải Chi Lăng


Giặc đến rồi! Kìa, trống đồng vang dội
Báo hung tin chúng xâm lược nước ta
Một bốn bảy hai (1472), trai gái trẻ già
Đều thao thức sục sôi bầu nhiệt huyết

Các tướng họp, chung một lòng cương quyết
Giặc Minh kia dù đông đến vạn nghìn
Chính nghĩa đâu thuộc về kẻ xâm lăng
Dân ta mạnh chính nhờ lòng yêu nước

Giờ đã đến - đại danh thần Nguyễn Trãi
Hiến kế mưu vây gọn ải Chi Lăng
Mười ba vạn quân cứu viện - tướng Liễu Thăng
Đành tan xác, chạy không còn manh giáp

Thôi hết mộng bắt dân ta cống nạp
Lễ hàng năm chưa thõa mộng tham tàn
Còn đem quân hầu thôn tính nước Nam
Dân ta ít, ai cũng đều yêu nước

Chính lòng dân đã làm nên sức mạnh
Dù hy sinh gian khổ đến mười năm
Lê Lợi minh quân, Nguyễn Trãi công thần
Cùng họp sức nghĩa quân thề cứu nước

Cửa Đông Quan giặc Minh xin nhường bước
Bến sông Thương tiêu diệt hết quân thù
Lửa Lam Sơn còn sáng rực thiên thu
Soi sáng mãi trang sử vàng chói lọi...

Vân Hà (TTHA)

Thursday, November 1, 2018

Phù Đổng Thiên Vương

Phù Đổng Thiên Vương


Bé thơ nào đã biết gì
Lên ba chẳng nói chẳng đi bao giờ
Giặc Ân kéo đến nào ngờ
Triều đình thiếu tướng biết nhờ cậy ai?
Vua loan tin báo cầu tài
Tìm người giúp nước lâu dài mai sau
Sứ thần ngơ ngác tìm đâu?
Hiền tài cứu nước, dãi dầu hiểm nguy
Đến làng Phù Đổng tức thì
Bé thơ bỗng gọi: "vào đi, ta truyền..."

Mẫu thân sợ hãi, bèn khuyên:
"Con ơi, việc nước dám phiền người sao?
Phép vua nghiêm linh truyền rao
Tìm người tướng giỏi, con nào biết chi?
Con tôi nói được, lạ kỳ
"Mẹ ơi, gọi sứ, có gì lạ đâu?"
"Hãy về nói với vua mau
Roi đồng, giáp sắt, binh đao sá gì!
Xin vua ngựa sắt ta đi
Giặc Ân đánh đuổi - cứu nguy nước nhà"
Sứ thần trở gót tâu qua
Triều đình kinh hãi cho là thánh nhân
Vươn vai cao lớn tiểu thần
Phi ngay ra trận đuổi dần địch quân
Lửa phun thiêu đốt giặc Ân
Ngựa thần bách chiến đánh tan quân thù
Rồi bay lên chốn mây mù
Tiểu thần biến mất, thiên thu tiếng còn...

Vân Hà (TTHA)

Tuesday, January 14, 2014

Tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa 19/1/1974

Cách đây 40 năm, giặc Tàu đã ngang nhiên xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Sau 1 trận hải chiến bất cân sức, 74 chiến sĩ Việt Nam đã nằm xuống mãi mãi như những anh hùng vệ quốc. Đây chính là chứng tích về sự xâm chiếm bất hợp pháp của Trung Quốc đối với vùng biển và đảo của Việt Nam, và sẽ là chứng cớ để tố cáo tội ác của họ ra trước tòa án quốc tế trong tương lai. Người Tàu có tật hay chối, những sự thật rành rành như việc xâm chiếm Tây Tạng, cả thế giới đều biết, mà họ vẫn ngang nhiên tuyên bố đó là đất của họ. Vì vậy, chúng ta cần phải buộc họ công nhận sự thật không thể chối cãi bằng cách công bố thật nhiều chứng cứ ra khắp thế giới và yêu cầu họ phải chấp nhận luật chơi chung của thế giới trong thế kỷ 21.

Nhân dịp 40 năm ngày mất Hoàng Sa, người Việt khắp nơi trên thế giới nên phát động phong trào đòi lại đảo, và lật tẩy bộ mặt cướp nước, xâm chiếm biển đảo của người Trung Quốc cho cả thế giới cùng biết. Đó chính là hành động thiết thực để tri ân những anh hùng đã ngã xuống và góp phần vào công cuộc tranh đấu pháp lý, đòi lại biển đảo quê hương.


Tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa - 19/1/1974

Hoàng Sa một dãi cát vàng
40 năm trước máu loang sóng gầm
Giặc Tàu cướp đảo lấn xâm
74 chiến sĩ quyết nằm lại đây 
Ngàn năm lịch sử phơi bày
Đảo vàng còn đó nước mây Lạc Hồng
Giữ gìn non nước cha ông
Bao đời dân Việt quyết không chịu lùi
Hoàng Sa quyết giữ quyết đòi
Biển Đông giành lại, sáng ngời nước Nam...

Niềm tin, công lý, ta làm
Giặc Tàu ỷ mạnh, lòng tham vô chừng
Đạo trời, công lý bất dung
Gian tham, tàn ác, cuối cùng bại vong
Xưa nay phi nghĩa chớ mong
74 tử sĩ hoà trong đất này
Chứng xưa, tội ác hôm nay
Ác giả ác báo - một ngày không xa
Đảo vàng về lại nước ta
Toàn dân chung hát khúc ca Thái Bình...

PQT
(Kỷ niệm 40 năm ngày mất đảo Hoàng Sa - 19/1/1974)

Thursday, October 17, 2013

Tư tưởng lấy dân làm gốc của người xưa

Ngày nay, cả thế giới đang chuyển động theo 1 trào lưu dân chủ, với nghĩa lấy "dân làm gốc" cho mọi quyết định quan trọng của quốc gia. Vì vậy, dân chủ hóa là 1 xu thế tất yếu và không thể đảo ngược được. Vấn đề ở đây là, khái niệm dân chủ vẫn chưa được hiểu rõ (hoặc cố tình không hiểu?) bởi một số người. Lấy ví dụ, một số quốc gia độc tài, bất chấp ý kiến của người dân, nhưng lúc nào cũng tự cho là "mình cực kỳ dân chủ", một số nước lại lý giải là nước mình có một loại dân chủ đặc thù, khác với dân chủ phương Tây. Đặc biệt, gần đây có 1 số người trong nước khá dị ứng khi nghe đến 2 từ dân chủ, lớn tiếng phê phán các tổ chức quốc tế khi nói đến những vi phạm nhân quyền của nước mình, thậm chí còn dùng chữ "bọn rân chủ" để nhạo báng những ai cổ xúy cho quyền của người dân.

Nhưng có lẽ, lắng lòng lại, thì mình sẽ có thể hiểu 1 cách rất rõ ràng, đơn giản về khái niệm này. Đó là mọi quyết định quan trọng của quốc gia, đất nước phải cân nhắc đến ý kiến và quyền lợi của những người có liên quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng phát biểu: "Dân chủ là để cho dân được mở miệng". Nhưng có lẽ chính xác hơn, không phải chỉ để cho dân được mở miệng, mà chính quyền phải thấy mình là công bộc của dân, phải biết lắng nghe ý kiến quyết định của "ông chủ" là người dân, là người đã đóng thuế nuôi mình. Khái niệm này thật đơn giản, không có sự khác biệt giữa phương Đông hay phương Tây, giữa tư bản hay cộng sản. Chỉ khác chăng, là mình có muốn thực sự tôn trọng quyền của người dân hay không mà thôi.

Vừa qua, đọc 1 đoạn trong cuốn Lối về Sen nở của Thầy Thích Phước Sơn có nói về Đạo đức chính trị của tiền nhân, trong đó có nói về tư tưởng lấy dân làm gốc. Xin trích lại dưới đây để mọi người cùng chiêm nghiệm và suy nghĩ về tư tưởng dân chủ của người xưa. Đây là 1 tư tưởng đã có từ lâu trong lịch sử của Việt Nam, mà tới nay, khi nhắc đến 2 từ "dân chủ", mọi người vẫn còn nghe đâu đây âm vang của Hội nghị Diên Hồng, khi vua phải hỏi ý kiến các bô lão trong cả nước về việc có nên chiến đấu chống giặc dữ xâm lược hay không.

Có lẽ, ngày nay, trong hòa bình và trong công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta cũng nên học lại bài học xưa, phải biết thực sự coi dân là gốc, biết thực tâm lắng nghe ý kiến của người dân trong những quyết định quan trọng của đất nước, như: sửa đổi hiến pháp, luật đất đai, vấn đề nông thôn, khai thác tài nguyên, thủy điện, điện hạt nhân, chống tham nhũng.... Có như thế mới chứng minh một cách thuyết phục với thế giới là mình thật sự đang đi trọng lộ trình dân chủ hóa của các quốc gia tiến bộ.

---

Tư tưởng lấy dân làm gốc của người xưa

Kinh qua lịch sử xưa nay, các triều đại huy hoàng đều do những nhà lãnh đạo anh minh gầy dựng. Tài năng và đức độ của họ luôn luôn ngang tầm với trọng trách mà họ gánh vác. Một trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp vẻ vang là lòng nhân ái, biết lấy dân làm gốc.

Đức tính này đã bộc lộ khá rõ trong lời di chúc của một vị vua Phật tử là Lý Nhân Tông (1072-1127): “Ta đã ít đức, không lấy gì làm cho trăm họ được yên vui, đến khi chết lại khiến cho mọi người mặc áo sô gai, sớm tối khóc than, giảm ăn uống, bỏ cúng tế, làm cho lỗi ta thêm nặng, như vậy thiên hạ sẽ nghĩ ta là người thế nào?... Thế nên, việc tang chế chỉ nên ba ngày là bỏ áo trở, dứt khóc than, chôn cất cốt phải kiệm ước, không nên xây lăng mộ mà chỉ để ta hầu bên cạnh Tiên đế là được.” (Sđd, 312)

Một vì vua thần võ sáng suốt, nhân hiếu song toàn, giỏi âm luật, thông lễ nhạc, được thần giúp, người theo, nước  lớn sợ, nước nhỏ mến, suốt 45 năm gầy dựng một giang sơn hùng mạnh, vậy mà đến lúc chết vẫn còn quên mình lo cho dân tộc, bằng lời di chúc khiêm tốn, cẩn trọng và đầy lòng vị tha. Điều đó  cũng dễ hiểu, bởi vì, các bậc minh quân đời  trước không ai là không nghĩ đến dân. Họ ít khi tuyên truyền bằng những khẩu hiệu suông, mà thực lòng chăm lo cho dân bằng những việc làm cụ thể.

Năm 1290, đất nước gặp phải thiên tai, dân chúng bị nạn đói hoành hành, Trần Nhân Tông (1258-1308) xuống chiếu  xuất ngân khố phát chẩn cho người nghèo và tha thuế cho dân. Việc làm ấy phát xuất từ tấm lòng chân thật thương dân, xót xa trước những nỗi khổ của mọi người, đau những nỗi đau của đồng bào đồng loại. Vì vậy mà khi ông mất, dân chúng cảm mến đua nhau đến tham dự đông nghẹt trong buổi lễ rước kim quan nhập tháp, khiến cho kim quan không thể nào di chuyển. Viên quan lo việc lễ tang phải tổ chức những khúc  hát Long ngâm tại nhiều nơi, mọi người thấy lạ, kéo nhau đến xem. Nhờ vậy buổi lễ mới tiến hành viên mãn.

Đức Phật dạy: “Nhân nào thì quả nấy; kính người thì người kính mình, thương người thì người thương mình.” Vua xem dân như con cái, thì dân kính vua như cha mẹ. Trái lại, nếu vua coi dân như cỏ rác thì dân sẽ oán vua như cừu địch. Thế nên, những nhà lãnh đạo nào nếu bị nhân dân bỏ rơi, thì đừng có vội trách  dân mà hãy tự trách mình. Do đó, nếu muốn được nhân dân yêu chuộng, tin tưởng, thì bản thân mình phải trung thực thương dân, không được lừa dối mọi người.

Sau khi chiến thắng quân Minh, giang sơn gom về một mối, quê hương  sạch bóng quân thù, người anh hùng ái vải Lê Lợi đã xuống chiếu miễn thuế cho dân 2 năm, không bắt sưu dịch những người già cả, ban thưởng cho những người con hiếu thảo, và khen tặng những phụ nữ tiết trinh. Chiếu chỉ ấy đã được toàn dân hân hoan đón nhận với tấm lòng cảm phục biết ơn. Bởi vì nhà vua đã thấy được sự cống hiến to lớn của nhân dân cả sinh mệnh  và tài sản cho cuộc kháng chiến đầy cam go, nên đã an ủi và tưởng lệ những công lao cao quí  của họ. Việc làm ấy tuy dễ, nhưng không phải ai cũng làm được, ngoại trừ những nhà lãnh đạo thực  lòng yêu nước, thương dân, biết cái gốc của một quốc gia nằm trong lòng người.

(Trích "Lối Về Sen Nở" - Thích Phước Sơn)

Monday, September 16, 2013

PHAN CHÂU TRINH VÀ 10 BI AI CỦA DÂN TỘC

Đọc trên blog Tễu thấy 1 bài khá hay về phân tích của cụ Phan Châu Trinh về 10 nhược điểm của người Việt Nam, khiến đất nước khó có thể phát triển và hội nhập với xu thế độc lập, dân chủ và tự cường trên thế giới. Điều cụ phân tích cách đây cả trăm năm, mà sao vẫn còn đúng... Thật đáng thương cho dân tộc Việt! 
Hy vọng với thời đại thông tin và Internet, mọi người tự chiêm nghiệm 10 điều bi ai này, dùng trí tuệ tự thân và tâm thức thời đại để soi sáng lối đi cho dân tộc, để mỗi người cảm nhận được nổi xấu hổ thua kém của đất nước mình và cùng cố gắng vươn lên.

-----


PHAN CHÂU TRINH VÀ 10 BI AI CỦA DÂN TỘC
Bùi Quang Minh

Phan Châu Trinh (1872-1926) là bậc hào kiệt đi đầu trong vận động chấn hưng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX, là nhà cách mạng xã hội, có tư tưởng dân chủ đầu tiên, là nhà văn hóa, một nhân cách lớn. Phan Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể xem ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ.

Đặc biệt hơn nữa, ông chọn con đường dấn thân tranh đấu nhưng ôn hòa, bất bạo động. Ông coi dân chủ cấp bách hơn độc lập và coi việc dùng luật pháp, cai trị quy củ có thể quét sạch hủ bại phong kiến.

Với tinh thần yêu nước nồng nàn, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, gian khó và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ, noi theo ngày hôm nay...

Phan Châu Trinh là người Việt Nam đầu tiên đã nhìn thấy trước cảnh “dịch chủ tái nô” (Đổi chủ nhưng Dân vẫn là Nô lệ)… Để tránh điều này, ông đã chỉ ra con đường giành độc lập – tự do cho dân tộc là phải bắt đầu từ “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.

Lời tiên tri của ông xuất phát từ 10 nhận xét vô cùng tinh tế và chính xác về đặc điểm con người Việt Nam mà đối chiếu thực tế ngày nay vẫn còn nguyên, thâm căn cố đế. Tiếc thay các thế hệ nối tiếp nhau đến nay vẫn chưa thực hiện đúng theo lời lời giáo huấn của ông. Dẫu sao, chậm còn hơn không bao giờ, mỗi người Việt Nam chúng ta dù sống ở đâu và làm việc gì, còn trẻ hay đã già hãy chiêm nghiệm những lời dạy trên đây của bậc Tiền bối đáng kính của dân tộc.



Mười điều bi ai của dân tộc Việt Nam


1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước; thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày.

2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề; thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.

3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc; thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.

4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau; thì ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau vì chữ lợi.

5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có; thì ta quen thói bất nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng.

6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết; thì ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đình bán hết ruộng hết trâu.

7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo; thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp.

8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lý, thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.

9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân; thì ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu trời khấn Phật.

10. Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là “đầy tớ” của dân, được dân tín nhiệm; thì ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng, v.v…
 

Monday, October 24, 2011

Đạo Phật giữa lòng người Việt

Đạo Phật giữa lòng người Việt
(Thạc sĩ Phạm Văn Cảnh)

Đạo Phật với tâm hồn người dân Việt chúng ta đã bao đời gắn bó, như tế bào, như hơi thở, là tình tự dân tộc, từng chia ngọt sẻ bùi trong mọi bước thăng trầm lịch sử. Mỗi khi vận nước nguy nan, sóng to gió lớn, thì tinh thần bất khuất quật khởi của dân tộc lại như ngọn thủy triều dâng lên, thể hiện lòng yêu nước mà chiến đấu, đó cũng chính là tinh thần vô úy của đạo Phật; mỗi khi gặp nghịch cảnh, không thuận lợi cho việc phát triển đất nước và đạo pháp, thì đạp Phật vẫn tùy duyên bất biến, giữ vững niềm tin và đức vô úy, cũng như dùng trí tuệ Bát Nhã, xóa bỏ vô minh thù hận tham si, để cứu độ chúng sinh vượt khỏi sông mê.

Có khi, gặp thuận cảnh, thì đạo Phật lại tham gia triều chính, quốc sự... tùy duyên hóa độ, mở ra những trang sử vừa rực rỡ của chiến công, vừa đầy lòng nhân ái của tình người và đại nghĩa. Triều Lý nước ta đã có những vị chân tu làm quốc sư, các vị quan lại là Phật tử, kiến thiết đất nước, xây dựng nhân sinh quan trên tư tưởng đạo Phật làm cho đất nước được phú cường, nhân dân hạnh phúc. Triều Trần, nước ta có vị anh hùng, Trần Nhân Tông lại là một thiền sư đắc đạo, mở ra cả một giòng thiền... Văn hóa của đạo Phật và văn hóa của dân tộc ta gắn bó với nhau hơn bao giờ hết.

Không chỉ dừng lại trong hạnh từ bi hay lòng nhân nghĩa, mà tinh thần vô úy, đại hùng đại lực còn kết hợp với tình yêu đất nước đã khiến các triều đại này lập nên bao chiến công hiển hách, để lại cho con cháu niềm kiêu hãnh ngàn đời : đánh Tống bình Chiêm, mở mang bờ cõi... Ba lần phá tan đạo quân Nguyên hung hãn và tàn bạo bậc nhất trong lịch sử chiến tranh xâm lược của loài người.

Cũng từ cái nôi của thời văn hóa thăng hoa Lý Trần mà các trào lưu tư tưởng đã ra đời : Sự xuất hiện của hai phái Thiền Thảo Đường (dưới triều Lý), Thiền Trúc Lâm (dưới triều Trần)... cùng với các tác phẩm văn hóa tiêu biểu, như : Chiếu Dời Đô, Nam Quốc Sơn Hà, Hịch Tướng Sĩ, Khóa Hư Lục, Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Điện U Linh Tập, Thiền Uyển Tập Anh... đã đánh dấu thời kỳ sáng tạo rực rỡ của văn hóa Việt. Không chỉ trên lĩnh vực tư tưởng, mà cả các tác phẩm binh thư võ công kiệt xuất, như : An Nam Hành Quân Pháp (đời Lý), Vạn Kiếp Bí Truyền Thư, Binh Thư Yếu Lược... (Trần Hưng Đạo), thể hiện sự độc sáng của dân Việt trên cơ sở tư tưởng đạo Phật, kết hợp cùng tinh thần Khổng và Lão giáo.

Thế cho nên không ai còn hoài nghi về sự gắn bó, thủy chung giữa tư tưởng đạo Phật và văn hóa Việt. Nó hòa quyện, chia sẻ với nhau trên suốt hành trình lịch sử, lúc nào đạo Phật hưng vượng thì đất nước được thái bình thịnh trị, lúc nào đạo Phật suy vi, gặp pháp nạn... thì vận nước cũng đảo điên.

Về nền văn học dân gian, chỉ xem qua kho tàng cổ tích Việt Nam (1), chắc không ai ngạc nhiên về hình ảnh của ông Bụt xuất hiện ở khắp mọi nơi, như một cái gì gần gũi gắn bó với tâm hồn Việt Nam từ rất sớm... Chỉ mỗi khi nguy nan, nhọc nhằn đau khổ, ức hiếp, bất công và tai nạn... thì ngọn gió từ bi trong lành, giọt nước cành dương tươi mát, lại xuất hiện trong mỗi hoạn nạn nhân gian để cứu khổn phò nguy, trừ tai giải họa... qua hình ảnh ông Bụt. Bụt trong Tấm Cám, Cây Tre Trăm Đốt, trong Chử Đồng Tử... và hầu hết các truyện cổ tích Việt Nam. Bụt khắp mọi nơi, trong nỗi đau khổ của nhân gian đều chờ đợi Bụt hiện ra... thật kỳ diệu lạ lùng...

Trong kho tàng ca dao có vô số câu dẫn chứng tư tưởng đạo Phật, về thuyết nhân quả, ở hiền gặp lành, làm ác gặp dữ, quả báo nhãn tiền, tu là cội phúc... chỉ cần dẫn một vài câu cũng chứa đủ cả triết lý thâm sâu lẫn thực hành ứng dụng:

Dẫu xây chín vạn phù đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một người

hoặc:

Không thờ lạy Phật trong nhà,
Lại đi thờ những quỷ ma ngoài đường.

hoặc:

Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa...

Theo các tài liệu nghiên cứu lịch sử gần đây, thì Đạo Phật đã đến với người Âu Lạc từ 240 năm trước Tây Lịch, vào thời đại Hùng Vương, qua các thương nhân Ấn Độ, Trung Á... bằng "con đường đồng cỏ", và các giòng sông Cửu Long (phát nguyên từ Tây Tạng), Hồng Hà, Hắc Giang... tiếp đó lại với "con đường hồ tiêu", trục lộ giao thông đường biển của các thương nhân vùng Địa Trung Hải, Trung Cận Đông, Ấn Độ sang buôn bán với Champa và người Giao Chỉ, sau đó đạo Phật mới đến bằng con đường lục địa từ Trung Quốc truyền sang... (2)

Thế cho nên, tư tưởng Phật đã mọc mầm bén rễ từ rất lâu đời, là nguồn trợ duyên đắc lực cho sự phát triển mọi mặt của nước ta.

Nhưng giòng sống Việt không phải lúc nào cũng thăng hoa, thuận lợi cho sự phát triển, mà bản thân xã hội ta, từ sau thế chiến, đang rơi vào một tình trạng phân hóa, diễn biến phức tạp. Qua bao biến chuyển của thời đại, giờ đây một thứ văn minh hình thức đang ngự trị : tư tưởng thực dụng chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa các ý thức hệ ngoại lai, sự sùng bái đồng tiền và vật chất nói chung, lòng ham mê hư danh bổng lộc, sự đảo lộn cương thường, phong hóa, sự phủ nhận các giá trị truyền thống, sự tha hóa của cá nhân, xuống cấp nhân cách của con người thời đại... tất cả thực trạng đó, đòi hỏi mỗi người dân Việt phải tìm hiểu lại cội gốc tư tưởng tinh hoa Việt, uống lại suối nguồn của lòng yêu thương vô ngã, của tinh thần từ bi trí tuệ, xây dựng nhân cách cao thượng của đạo Phật, đạo lý Đông Phương... để tu dưỡng mình và nhập thế trong hoàn cảnh hiện tại, làm những nhân tố phát triển cho thời đại mới, thức tỉnh lòng người, và đốt lên ngọn lửa tâm trong lành tươi mát... cho đất nước, giang sơn Việt, để mong còn có cơ hội thịnh vượng, thăng hoa...



Chú thích:
(1) Kho tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Nguyễn Đổng Chi, NXB. KHXH, Hà Nội, 1972.
(2) A Correlated History of The Far East - Maria Penkala - Tokyo, 1966.

Tuesday, August 2, 2011

Việt Nam Sử Lược

Vừa rồi, nhân đọc bài báo "Điểm thi môn sử thấp không ngờ" trên Tuổi Trẻ Online (26/7/2011) lòng chợt buồn nhưng không quá ngạc nhiên. Bài báo nói về tỷ lệ cao bất thường của thí sinh có điểm dưới trung bình môn Sử trong kết quả thi tuyển sinh Đại Học năm nay. Qua bài báo, ta biết được "nhiều trường ĐH có trên 98% bài thi môn sử dưới điểm trung bình. Thậm chí có trường chỉ một thí sinh đạt điểm trung bình môn sử". Đó là một kết quả bất thường phản ánh việc giáo dục môn Lịch sử ở nước ta đang có vấn đề nghiêm trọng.
Sở dĩ, vấn đề này không gây bất ngờ cho tôi bởi nó đã được cảnh báo bởi nhiều nhà giáo dục có tâm huyết từ nhiều năm nay. Đó là thực trạng học sinh thờ ơ với môn Sử, kiến thức về lịch sử nước nhà thì mơ hồ trong khi lịch sử Tàu thì lại rất rõ, việc phân phối chương trình giáo khoa Sử không phù hợp với các cấp lớp... Trong khi đó những nhà quản lý giáo dục của ta mãi chạy theo những phong trào này nọ, đề ra những chỉ tiêu xa vời thiếu thực tế, trong khi đời sống nhà giáo không được cải thiện, việc xã hội hóa giáo dục gắn liền với việc tăng thu từ phụ huynh hay đẩy gánh nặng trách nhiệm về phía người dân... Vì vậy, kết quả trên chính là phản ánh một thực tế hiển nhiên, như có nhân ắt có quả. Nó cho thấy một góc nhìn về thực trạng giáo dục của Việt Nam đang xuống cấp như thế nào.
Tuy nhiên, có một điều làm tôi buồn và ngạc nhiên hơn đó là khi đọc bài trả lời phỏng vấn của Bộ trưởng Bộ GDĐT trên báo SGGP (30/7/2011), ông xem kết quả trên là bình thường, và nước nào mà chẳng vậy. Điều này, có nghĩa là đối với ông, người đứng đầu ngành giáo dục, thì vấn đề trên chẳng có gì là nghiêm trọng, và không có gì cần phải chỉnh sửa, thay đổi cả.
Buồn vì thấy rằng thực trạng "dốt sử" ở nước ta đã được cụ Trần Trọng Kim nói đến trong Việt Nam Sử Lược từ rất lâu rồi, nhưng xem ra những lời nhắc nhở của cụ vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.
Chép lại lời tựa trong cuốn Việt Nam Sử Lược của cụ Trần Trọng Kim, để nhắc nhở mọi người về tầm quan trọng của việc học và hiểu lịch sử nước nhà, hiểu được giá trị của môn lịch sử đối với việc giáo dục lòng yêu nước, đến sự tồn vong và phát triển của cả dân tộc và đất nước.

=========================

Lời Tựa Việt Nam Sử Lược

Sử là sách không những chỉ để ghi chép những công việc đã qua mà thôi, nhưng lại phải suy xét việc gốc ngọn, tìm tòi cái căn nguyên những công việc của người ta đã làm để hiểu cho rõ những vận hội trị loạn của một nước, những trình độ tiến hóa của một dân tộc. Chủ đích là để làm cái gương chung cổ cho người cả nước được đời đời soi vào đấy mà biết cái sự sinh hoạt của người trước đã phải lao tâm lao lực những thế nào, mới chiếm giữ được cái địa vị ở dưới bóng mặt trời này.

Người trong nước có thông hiểu những sự tích nước mình mới có lòng yêu nước yêu nhà, mới biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng, để vun đắp thêm vào cái nền xã hội của tiên tổ đã xây dựng nên mà để lại cho mình. Bởi những lẽ ấy cho nên phàm dân tộc nào đã có đủ cơ quan và thể lệ làm cho một nước độc lập, thì cũng có sử cả. Nước Việt ta khởi đầu có sử từ đời nhà Trần, vào quãng thế kỷ thứ XIII. Từ đó trở đi nhà nào lên làm vua cũng trọng sự làm sử. Nhưng cái lối làm sử của ta theo lối biên niên của Tàu, nghĩa là năm nào tháng nào có chuyện gì quan trọng thì nhà làm sử chép vào sách. Mà chép một cách rất vắn tắt cốt để ghi lấy chuyện ấy mà thôi, chứ không giải thích cái gốc ngọn và sự liên can việc ấy với việc khác là thế nào.

Nhà làm sử lại là người làm quan, vua sai coi việc chép sử, cho nên dẫu thế nào sự chép sử cũng không được tự do, thường có ý thiên vị về nhà vua, thành ra trong sử chỉ cần chép những chuyện quan hệ đến nhà vua, hơn là những chuyện quan hệ đến sự tiến hóa của nhân dân trong nước. Vả, xưa nay ta vẫn chịu quyền chuyên chế, vẫn cho việc nhà vua là việc nước. Cả nước chỉ cốt ở một họ làm vua, cho nên nhà làm sử cứ theo cái chủ nghĩa ấy mà chép sử, thành ra sử đời nào cũng chỉ nói chuyện những vua đời ấy mà thôi. Bởi vậy xem sử ta thật là tẻ, mà thường không có ích lợi cho sự học vấn là mấy.

Sử của mình đã không hay, mà người mình lại không mấy người biết sử. Là vì cái cách học tập của mình làm cho người mình không có thể biết được sử nước mình. Bất kỳ lớn nhỏ, hễ ai cắp quyển sách đi học thì chỉ học sử Tàu,chứ không học sử nước nhà. Rồi thơ phú văn chương gì cũng lấy điển tích ở sử Tàu, chứ chuyện nước mình thì nhất thiết không nói đến. Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: "Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!" Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?

Nhưng dẫu thế nào mặc lòng, nước ta đã có sử ta thì cũng có thể bởi đó mà biết được những sự đã qua ở nước ta, và có thể bởi đó mà khảo cứu được nhiều việc quan hệ đến vận mệnh nước mình từ xưa đến nay xoay vần ra làm sao. Hiềm vì sử nước ta thì làm bằng chữ Nho cả, mà chữ Nho thì từ rày trở đi chắc rồi mỗi ngày một kém đi. Hiện nay số người đọc được chữ Nho còn nhiều, mà trong nước còn không có mấy người biết được chuyện nước nhà, huống chi mai sau này chữ Nho bỏ không học nữa, thì sự khảo cứu về những việc quan hệ đến lịch sử nước mình sẽ khó biết bao nhiêu!

Nay nhân sự học ở nước ta đã thay đổi, chữ quốc ngữ đã phổ thông cả trong nước, chi bằng ta lấy tiếng nước nhà mà kể chuyện nước nhà, ta soạn ra bộ Việt Nam Sử Lược, xếp đặt theo thứ tự, chia ra từng thời đại, đặt thành chương, thành mục rõ ràng, để ai ai cũng có thể xem được sử, ai ai cũng có thể hiểu được chuyện, khiến cho sự học sử của người mình được tiện lợi hơn trước.

Bộ Việt Nam Sử Lược này, soạn giả chia ra làm 5 thời đại:

Thời đại thứ nhất là Thượng Cổ thời đại, kể từ họ Hồng Bàng cho đến hết đời nhà Triệu. Trong thời đại ấy, từ chương thứ III, bàn về xã hội nước Tàu trước đời nhà Tần, phần nhiều là những chuyện hoang đường, huyền hoặc cả. Những nhà chép sử đời trước cũng theo tục truyền mà chép lại, chứ không có di tích gì mà khảo cứu cho đích xác. Tuy vậy, soạn giả cũng cứ theo sử cũ mà chép lại, rồi cũng phê bình một đôi câu để tỏ cho độc giả biết rằng những chuyện ấy không nên cho là xác thực.

Thời đại thứ nhì là Bắc Thuộc thời đại, kể từ khi vua Vũ Đế nhà Hán lấy đất Nam Việt của nhà Triệu, cho đến đời Ngũ Quí, ở bên ta có họ Khúc và họ Ngô xướng lên sự độc lập. Những công việc trong thời đại ấy, thì sử cũ của nước ta chép rất là sơ lược lắm. Vì rằng trong thời đại Bắc Thuộc, người mình chưa được tiến hóa, sự học hành còn kém, sách vở không có, cho nên về sau những nhà làm sử của ta chép đến thời đại này cũng không kê cứu vào đâu được, chỉ theo sử Tàu mà chép lại thôi. Vả, người Tàu lúc ấy vẫn cho mình là một xứ biên địa dã man, thường không ai lưu tâm đến, cho nên những chuyện chép ở trong sử, cũng sơ lược lắm, mà đại để cũng chỉ chép những chuyện cai trị, chuyện giặc giã, chứ các công việc khác thì không nói đến.

Thời đại Bắc Thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có 1 điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.

Thời đại thứ ba là thời đại Tự Chủ, kể từ nhà Ngô, nhà Đinh cho đến sơ-diệp nhà Hậu Lê. Nước mình từ thời đại ấy về sau là một nước dộc lập, tuy đối với nước Tàu vẫn phải xưng thần và chịu cống, nhưng kỳ thực là không ai xâm phạm đến cái quyền tự chủ của mình. Buổi đầu, nhà Đinh, nhà Lê mới dấy lên; còn phải xây đắp cái nền tự chủ cho vững bền, phải lo sửa sang việc võ bị để chống với kẻ thù nghịch, cho nên sự văn học không được mở mang lắm. Về sau đến đời nhà Lý, nhà Trần, công việc ở trong nước đã thành nền nếp, kẻ cừu địch ở ngoài cũng không quấy nhiễu nữa, lại có nhiều vua hiền tôi giỏi nối nhau mà lo việc nước, cho nên từ đó trở đi việc chính trị, việc tôn giáo và việc học vấn mỗi ngày một khai hóa ra, làm cho nước ta thành một nước có thế lực, bắc có thể chống được với Tàu, nam có thể mở rộng thêm bờ cõi. Nhà Lý và nhà Trần lại có công gây nên cái quốc hồn mạnh mẽ, khiến cho về sau đến đời Trần mạt, nhân khi họ Hồ quấy rối, người Tàu đã toan đường kiêm tính, người mình biết đồng tâm hiệp lực mà khôi phục lại giang sơn nhà. Kế đến nhà Lê, trong khoảng một trăm năm về buổi đầu, nước mình cũng có thể gọi là thịnh trị, nhất là về những năm Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497), thì sự văn trị và võ công đã là rực rỡ lắm. Nhưng về sau gặp những hôn quân dung chúa, việc triều chính đổ nát, kẻ gian thần dấy loạn. Mối binh đao gây nên từ đó, người trong nước đánh giết lẫn nhau, làm thành ra nam bắc chia rẽ, vua chúa tranh quyền. Ấy thật là một cuộc biến lớn ở trong nước vậy.

Thời đại thứ tư là Nam Bắc phân tranh, kể từ khi nhà Mạc làm sự thoán đoạt cho đến nhà Tây Sơn. Trước thì nam Lê, bắc Mạc, sau thì Nguyễn nam, Trịnh bắc, sự cạnh tranh càng ngày càng kịch liệt, lòng ghen ghét càng ngày càng dữ dội. Nghĩa vua tôi mỏng mảnh, đạo cương thường chểnh mảng: nước đã có vua lại có chúa. Trong Nam ngoài Bắc mỗi nơi một giang sơn, công việc ở đâu, chủ trương ở đấy. Tuy vậy việc sửa đổi ở ngoài Bắc cũng có nhiều việc hay, mà việc khai khẩn trong Nam thật là ích lợi. Nhưng cuộc thành bại ai đâu dám chắc, cơn gió bụi khởi đầu từ núi Tây Sơn, làm đổ nát cả ngôi vua cùng nghiệp chúa. Anh em nhà Tây Sơn vẫy vùng không được 20 năm, thì bản triều nhà Nguyễn lại trung hưng lên, mà đem giang sơn về một mối, lập thành cái cảnh tượng nước Việt Nam ta ngày nay vậy.

Thời đại thứ năm là Cận Kim thời đại, kể từ vua Thế Tổ bản triều cho đến cuộc Bảo Hộ bây giờ. Vua Thế Tổ khởi đầu giao thiệp với nước Pháp Lan Tây để mượn thế lực mà đánh Tây Sơn. Nhưng về sau vì những vua con cháu Ngài đổi chính sách khác, nghiêm cấm đạo Thiên Chúa và đóng cửa không cho ngoại quốc vào buôn bán. Những đình thần thì nhiều người trí lự hẹp hòi, cứ nghiễm nhiên tự phụ, không chịu theo thời mà thay đổi. Đối với những nước ngoại dương, thì thường hay gây nên sự bất hòa, làm cho nước Pháp phải dùng binh lực để bênh vực quyền lợi của mình. Vì những chính sách ấy cho nên mới thành ra có cuộc Bảo Hộ. (?)

Đại khái đó là những mục lớn trong những phần mà soạn giả đã theo từng thời đại để đặt ra. Soạn giả đã cố sức xem xét và góp nhặt những sự ghi chép ở các sách chữ Nho và chữ Pháp, hoặc nhữNg chuyện rải rác ở các dã sử, rồi đem trích bỏ những sự huyền hoặc đi mà soạn ra bộ sách này, cốt để người đồng bang ta biết được chuyện nước nhà mà không tin nhảm những sự huyễn hoặc. Thời đại nào nhân vật ấy và tư tưởng ấy, soạn giả cứ bình tĩnh cố theo cho đúng sự thực. Thỉnh thoảng có một đôi nơi soạn giả có đem ý kiến riêng của mình mà bàn với độc giả, thí dụ như chỗ bàn về danh hiệu nhà Tây Sơn thì thiết tưởng rằng sử là của chung cả quốc dân, chớ không phải riêng cho một nhà một họ nào, cho nên mới phải lấy công lý mà xét đoán mọi việc và không vị tình riêng để phạm đến lẽ công bằng vậy.

Độc giả cũng nên biết cho rằng bộ sử này là bộ Sử Lược chỉ cốt ghi chép những chuyện trọng yếu để hãy tạm giúp cho những người hiếu học có sẵn quyển sách mà xem cho tiện. Còn như việc làm thành ra bộ sử thật là đích đáng, kê cứu và phê bình rất tường tận, thì xin để dành cho những bậc tài danh sau này sẽ ra công mà giúp cho nước ta về việc học sử. Bây giờ ta chưa có áo lụa, ta hãy mặc tạm áo vải, tuy nó xấu xí nhưng nó có thể làm cho ta đỡ rét. Nghĩa là ta hãy làm thế nào cho những thiếu niên nước ta ngày nay ai cũng có thể biết một đôi chút sự tích nước nhà, cho khỏi tủi quốc hồn. Ấy là cái mục đích của soạn giả, chỉ có thế thôi. Nếu cái mục đích ấy mà có thể tới được thì tưởng bộ sách này là bộ sách có ích vậy.

Trần Trọng Kim

Thursday, September 30, 2010

4 NGÀN NĂM VĂN HIẾN


"Lịch sử Việt Nam 4000 năm văn hiến" là câu chúng ta thường rất hay nghe. Nhưng nhiều người không biết tại sao gọi là văn hiến mà không phải là văn hóa. Bởi vì, văn hóa được chia cụ thể hơn thành 2 phần là văn hóa tinh thần hay còn gọi là văn hiến và văn hóa vật chất hay còn gọi là văn vật. Do đó, người ta thường nói "Hà Nội ngàn năm văn vật". Tiếc thay, cái văn hóa vật chất ít ỏi đó đã bị mai một dần đi, không chỉ do chiến tranh trong suốt 1000 năm đó, mà còn do chính bàn tay của thế hệ sau phá hủy bởi vì thiếu hiểu biết.

Trước đây cả ngàn năm, một trong những mục tiêu lớn nhất của người Trung Quốc khi muốn thôn tính Việt Nam, đó là tiêu diệt văn hóa. Và họ đã thành công phần nào đối với văn hóa vật chất, nhưng vẫn chưa thể xâm phạm được đến văn hóa tinh thần. Bởi vẫn còn đó lũy tre làng, mái đình, cây đa, làn quan họ... Ông cha ta còn cố gắng để làm rõ thêm văn hóa Việt, bằng những sự khác biệt ở chữ viết, cách mặc áo, để tóc, nhuộm răng... Đó là lý do mà dân tộc Việt Nam vẫn tồn tại và phục quốc sau 1000 năm bị đô hộ. Nhờ đó mà việc xây dựng đất nước và khôi phục văn hóa vật chất đã được các triều đại Lý, Trần khôi phục một cách nhanh chóng.

Thế mà, ngày nay, thành trì kiên cố của nền văn hiến 4000 năm sắp bị lung lay, bởi những thế hệ con cháu ngu dốt và yếu hèn. Một vài dẫn chứng, như việc làm các bộ phim mừng đại lễ "sặc mùi Tàu", các đài truyền hình thi nhau chiếu phim Tàu, các viện Khổng Tử được mọc lên tại các đại học, học sinh không hiểu biết và hứng thú đối với lịch sử đất nước, báo chí VN đăng lại các bài cổ vũ sự bành trướng của TQ, cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ văn hóa lại tiếp tay cho việc quảng bá văn hóa Tàu...

Càng nhìn vào thực trạng đất nước hiện nay, lại càng buồn! Nếu con cháu ngày nay, không biết thức tỉnh, cùng nhau bảo vệ nền văn hóa tinh thần của dân tộc, thì việc mất nước chỉ là một sớm một chiều mà thôi. Đó là lý do tại sao tôi không thể vui trước thềm kỷ niệm sự kiện ngàn năm một thuở này.

4 NGÀN NĂM VĂN HIẾN

Tổ quốc Việt Nam bốn ngàn năm
Sáng soi lịch sử những thăng trầm
Thái bình – ước vọng ông cha đó
Còn mãi lòng ta, ánh trăng rằm…

Văn hiến từ xưa đã dựng xây
Văn Lang, Âu Lạc - máu xương dầy
Một giọt máu hồng nòi Bách Việt
Chảy từ quá khứ đến ngày nay…

Trãi bao tàn phá bởi ngoại xâm
Văn hóa Việt Nam vẫn âm thầm
Sáng soi đốm lửa trong đêm tối
Để một ngày mai lại nảy mầm...

Còn nhớ truyện xưa thuyết Tiên Rồng
Trăm nòi Bách Việt, giống Lạc Hồng
Văn minh lúa nước, cùng vui sống,
Trống đồng, cung nỏ - vững non sông.

Ngày nay, chinh chiến đã sạch rồi
Hãy cùng dựng lại núi sông thôi
Con cháu gắng lòng, quê hương đó,
Văn hiến Việt Nam mãi sáng ngời…

(Quốc Trung)

Wednesday, September 15, 2010

ĐẤT NƯỚC NGÀN NĂM


ĐẤT NƯỚC NGÀN NĂM

Đất nước Việt Nam, đất nước tôi
Mỗi lần nghĩ đến lại bồi hồi
Bao nhiêu lịch sử oai hùng đó
Giờ chỉ còn trong sách vở thôi

Đất nước còn đây – quê ta đây
Chiến chinh đã hết biết bao ngày
Mà sao dân tộc còn đau khổ
Chia rẽ, nghèo nàn – do ai gây ?

Vong thân, vọng ngoại mất tự do
Một thời oanh liệt – hóa thành tro
Bao nhiêu lý tưởng, giờ đâu mất
Con đường phía trước, thấy mà lo ?

Đất nước này đâu của mình ai
Của chung dân tộc - “lắm người tài”
Cùng chung nỗi khổ, cùng ao ước
Sao chẳng cùng nhau - đắp, dựng, xây ?

Lắng nghe tiếng gọi của non sông,
Nghe dòng máu chảy, máu Tiên Rồng.
Quên đi danh lợi, quên thù hận
Sáng mãi ngàn năm – nước Lạc Hồng.

PQT

Sunday, April 4, 2010

MỞ NỀN ĐỘC LẬP


Việt Nam đang chuẩn bị tổ chức lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, tính từ 1010 khi vua Lý Công Uẩn ban chiếu dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Nhưng có lẽ 1 sự kiện quan trọng hơn, mà nếu không có nó cũng sẽ không có 1000 năm Thăng Long, đó là chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng, trước đó vài chục năm. Chính sự kiện này mở ra một thời đại độc lập cho đất nước hơn 1000 năm cho đến ngày nay. Tầm vóc của sự kiện này thật to lớn và khẳng định sức mạnh của Việt Nam trước 1 kẻ thù truyền kiếp đến từ phương Bắc. Những người tổ chức lễ hội 1000 năm nên khai thác ý nghĩa biểu tượng của sự kiện này để nâng tầm vóc của lễ hội lên tầm quốc gia, nhằm nâng cao tinh thần tự chủ của dân tộc, đối phó với những mưu toan xâm lược mới đầy nham hiểm của kẻ thù phương Bắc.

MỞ NỀN ĐỘC LẬP


Ngàn năm dưới gót giặc Tàu
Quê hương yêu dấu còn đâu thanh bình ?
Bao phen trống dậy biên đình
Nước nhà đến vận hồi sinh trưởng thành
Ngô Quyền – sáng mãi sử xanh
Mở thời độc lập, quyết giành tự do
Bạch Đằng, dựng lại cơ đồ
Đánh tan Nam Hán, đóng đô, xây thành
Quê hương, dựng lại thật nhanh,
Muôn dân một ý, lòng thành việc chung
Buổi đầu gian khó vô cùng
Giữ gìn độc lập, cùng chung xây nền
Quyết lòng gắng chí sẽ nên,
Việt Nam độc lập, vững bền mai sau
Quê hương đất nước dài lâu
Tương lai tươi sáng, mở đầu từ đây…

Sunday, December 20, 2009

THỐNG NHẤT SƠN HÀ


THỐNG NHẤT SƠN HÀ

Nước nhà gặp buổi phân ly
Mười hai sứ loạn, kinh kỳ đau thương
Lòng dân ôi nỗi đoạn trường
Quê hương, dân tộc, máu xương chia lìa
Núi sông, quyền lực phân chia
Mỗi người một cõi, nước thì ra sao ?
Hỡi đâu là đấng anh hào,
Ra tay dẹp loạn, đồng bào chịu ơn
Trước là tài, trí phải hơn
Sau là xóa sạch nỗi hờn chiến tranh,
Trẻ thơ mà đã khôn lanh
Bông lau tập trận, đều dành chiến công
Đinh Tiên Hoàng Đế một lòng
Dẹp tan loạn lạc, non sông thu về
Sơn hà thống nhất, vui ghê !
Người dân bớt khổ, đồng quê lại vàng
Lập công, ca khúc khải hoàn
Quê hương xây đắp, lại càng hơn xưa…

Monday, October 19, 2009

LAM SƠN KHỞI NGHĨA



LAM SƠN KHỞI NGHĨA

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân dẹp tan cường bạo” •
Những lời sâu sắc làm sao !
Đạo lý muôn đời, con cháu noi theo.

Đất Lam Sơn – gieo neo sương khói
Vì quê hương, sông núi mịt mờ
Lê Lợi chủ soái phất cờ
Nguyễn Trãi phò tá, quân cơ mật bàn…

Mười năm dài, gian nan vất vả
Nếm mật, nằm gai, đã quen rồi
Đợi khi thời điểm chín mùi
Một phen khởi nghĩa, tơi bời giặc Ngô.

Sạch bóng giặc Bình Ngô Đại Cáo
Lập chiến công, đền báo ơn cha
Quyết lòng xây lại nước nhà
Lam Sơn hát mãi khúc ca kiêu hùng…

-----
• Trích Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi

Wednesday, June 17, 2009

Hung Dao Vuong


Ba lần đánh bại quân Nguyên
Nước nhà nhớ mãi gương hiền thánh nhân
Hưng Đạo Vương thuở nhà Trần
Chiến công vang dội, bao lần lập công
Nguyên Mông dù mạnh, đừng hòng
Quân dân Đại Việt, một lòng sắt son
Diên Hồng, dấu vết vẫn còn
Hịch xưa (*) vang dội, cháu con giữ gìn
Thánh Trần, sáng mãi niềm tin
Trong lòng dân tộc, quê mình ngàn năm
Linh thiêng, khí phách - âm thầm
Hộ dân, hộ quốc, bao năm vững bền,
Sử xanh còn mãi khắc tên,
Cháu con vẫn mãi dựng đền – ghi công,
Gương xưa, nhớ mãi trong lòng
Anh hùng dân tộc, núi sông nghiêng mình…



(*) HỊCH TƯỚNG SĨ

"Ta thường nghe: Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước. Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung; Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có? Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách cùng trời đất muôn đời bất hủ được?

Các ngươi vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi việc đời trước hẵng tạm không bàn. Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói: Vương Công Kiên là người thế nào? Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà đem thành Điếu Ngư nhỏ tày cái đấu đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn, khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu! Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào? Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào? Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần, khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!

Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da quân giặc, nuốt gan, uống máu quân thù; dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa, cũng nguyện xin làm.

Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm. Quan thấp thì ta thăng tước; lộc ít thì ta cấp lương. Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa. Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết; được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?

Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo; thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức; nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm. Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích. Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình; có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước; có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân. Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm. Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc; mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh. Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng; vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc. Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc; chó săn tuy hay không đuổi được quân thù. Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết; giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai. Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác; chẳng những gia quyến của ta bị đuổi mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng?

Nay ta bảo thật các ngươi: nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy; nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ. Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho ai nấy đều giỏi như Bàng Mông, mọi người đều tài như Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhaị Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng; chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm, mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy; chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng; chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí, mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi, phỏng có được không?

Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.

Vì sao vậy? Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung, mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ, chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc, để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?

Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta."

Thursday, April 2, 2009

Tinh Dan Toc


TÌNH DÂN TỘC

(Ky niem ngay Gio To Hung Vuong - 10/3al Ky Suu)


“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Quê hương đất nước của chung
Con Hồng cháu Lạc đều chung một nhà
Thương yêu, giúp đỡ dân ta
Đạo tình xưa ấy, tuy xa mà gần
Làm người quý nhất chữ Nhân
Nước nhà trọng nhất tinh thần quê hương
Đi đâu cũng nhớ cũng thương
Quê cha đất tổ, cội nguồn ông cha
Cùng trong một trứng mà ra
Đồng bào, chung một mẹ cha Tiên Rồng
Nhắc chuyện xưa để cùng mong
Thương nhau, con cháu Tiên Rồng hôm nay
Quê hương nhắc nhở hằng ngày
Cùng nhau chia sẻ đắng cay ngọt bùi
Chớ vì danh lợi ngựợc xuôi
Gây ra nỗi khổ, ngậm ngùi dân ta
Chớ vì cuộc sống xa hoa
Quên đi lời dặn ông cha thuở nào
Chớ vì tranh thấp tranh cao
Nước nhà xem nhẹ, đồng bào coi khinh
Chỉ lo lợi ích riêng mình
Quên tình dân tộc, nhẹ tình quê hương
Lời xưa ngẫm nghĩ, tỏ tường
Quốc gia làm trọng, quê hương yên bình
Giúp người, như giúp chính mình
Đồng bào, dân tộc – sáng tình quê hương…