Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Saturday, December 17, 2011

Trăng và Xuân


Trăng và Xuân
Phạm Trường Linh

Gởi cho con những giòng thơ,
Như giòng máu tự ngàn xưa chảy về,
Núi sông ngàn dặm sơn khê,
Cha ông ký thác lời thề nước non,

Trăng trầm cửa Hát, lòng son,
Anh trăng Như Nguyệt, sóng cồn âm vang,
Bãi chông trên Bạch Đằng Giang,
Là hồn Tướng Sĩ nhục mang trong lòng,
Kể từ dậy khói Lam Sơn,
Giữa đêm biên ải, núi rừng Chí Linh,
Bình Ngô Đại Cáo rập rình,
Lửa Thăng Long, khói kinh thành đêm xuân,
Đống Đa phơn phớt hồn quân,
Bình Thanh thệ chúng, mùa xuân kiêu hùng,

Trăng vẫn tỏ giữa mịt mùng đêm tối,
Xuân ngàn năm, xuân vẫn chưa phai,
Trăng và Xuân nỗi u hoài,
Anh trăng lịch sử còn dài tình xuân.

Wednesday, December 14, 2011

Tiếng chuông tặng người

For whom the bell tolls
(John Donne)

No man is an island,
Entire of itself.
Each is a piece of the continent,
A part of the main.
If a clod be washed away by the sea,
Europe is the less.
As well as if a promontory were.
As well as if a manor of thine own
Or of thine friend's were.
Each man's death diminishes me,
For I am involved in mankind.
Therefore, send not to know
For whom the bell tolls,
It tolls for thee.

____________________

Tiếng chuông tặng người

Không ai - ốc đảo tự thân
Mỗi người ấy chính một phần thế gian
Ta là một giữa muôn vàn
Một phần của quả đất ngàn mến thương

Chẳng may, đất lở đại dương
Địa cầu bị khuyết, bị thương một phần
Chẳng may, ai đó vãn phần
Lòng ta cũng nhói, bần thần, xót xa
Bởi người xa lạ với ta
Cùng chung máu đỏ một nhà thế gian

Thế nên, mượn tiếng chuông vang
Đánh lên một tiếng tỏa lan xa gần
Cho người dẫu lạ hay thân
Cùng nghe được tiêng chuông ngân đồng đều…

(dịch thơ “For whom the bell tolls” của John Donne)

Friday, November 18, 2011

Thành công vĩ đại là thành quả của lao động vĩ đại

Great success is the fruit of great labour

Generally speaking, the life of all truly great men has been a life of intense and incessant labour. They have commonly passed the first half of life in the gross darkness of indigent humility, overlooked, mistaken, contemned by weaker men; thinking while others slept, reading while others rioted; and then, when their time was come, and some little accident has given them their first occasion, they have burst out into the light and glory of public life, rich with the spoils of time; then do the multitude cry out “a miracle of genius !”Yes, he is a miracle of genius, because he is a miracle of labour; because, instead of trusting to the resources of his own single mind, he has ransacked a thousand minds; because he makes use of the accumulated wisdom of ages….

Sidney Smith



Thành công vĩ đại là thành quả của lao động vĩ đại

Nói chung, cuộc đời của tất cả những người thật sự vĩ đại là một cuộc đời làm việc tràn đầy nhiệt huyết, không hề ngừng nghỉ. Họ thường trải qua một nửa đầu cuộc đời trong màn đêm mênh mông với sự khiêm tốn nhún nhường của những kẻ khốn cùng “mắt mù mặt cúi” bị những kẻ kém cỏi xem thường, ngộ nhận, khinh khi; họ suy nghĩ trong khi những người khác đã ngủ yên, họ đọc sách trong khi những kẻ khác ăn chơi trác táng; và sau đó, khi thời điểm đến, và vài cơ duyên nhỏ đã cho họ cơ hội đầu tiên, họ nhanh chóng bật sáng, vinh quang trong đời sống xã hội, làm giàu kiến thức và kinh nghiệm bằng tận dụng thời gian; sau đó, thiên hạ sẽ thốt lên : “Sự mầu nhiệm của thiên tài” .
Vâng, anh ta là một thiên tài kỳ diệu, bởi anh ta là người lao động kỳ diệu, và thay vì tin tưởng vào nguồn tri thức đơn độc của mình, anh ta đã lục tìm cả ngàn tư tưởng, bởi anh ta đã tận dụng được trí tuệ tích luỹ trong nhiều thời đại …

(sưu tầm)

Wednesday, November 9, 2011

Vẫn sáng trong tăm tối

Vẫn sáng trong tăm tối

Phạm Trường Linh


Trước cửa tương lai, chọn nghề thầy giáo
Chẳng vì công danh chẳng vì cơm áo,
Chỉ vì tương lai và niềm hy vọng
Hôm nay trồng người cho trăm năm sau...

Đó là nghiệp chẳng phải nghề kiếm sống
Lòng con buôn sao hiểu được lòng thầy
Đời tuy khó ta sống thanh bần vậy
Đạo lương sư chỉ biết giữ lòng ngay

Cánh hoa sen dễ gì bùn vẩn đục,
Mặc dù sen vẫn sống giữa ao lầy
Đời có hiểu hay không, ta cũng mặc
Tự ngàn xưa, phú quí có bao thầy

Và tâm sự cả một bầu nhiệt huyết
Trong trái tim, mạch sống ta dâng đầy
Ta gởi đến cho tuổi xanh băng tuyết,
Những hồn thơ trong sáng và thơ ngây,

Bao tinh hoa lấy ra từ cuộc sống,
Đãi lọc từ lịch sử bốn nghìn năm,
Để nuôi dưỡng những mầm xanh hy vọng,
Trong mỗi trái tim, mỗi ánh lửa hồng,

Ta chuyển đến em những vần thơ rực lửa,
Hai Bà Trưng, Lê Lợi đến Quang Trung,
Từ Đinh, Lý, Trần vàng son rạng rỡ,
Đến hôm nay tổ quốc vẫn anh hùng.

Đây những trái tim tình yêu tha thiết,
Đau số phận người, ta khóc với Nguyễn Du,
Thương Thuý Kiều giọt nước mắt nghìn thu,
Từ Kim Trọng đến Thúc sinh, Từ Hải,

Những đớn đau từ ngàn xưa vọng lại,
Kết tinh bằng máu huyết của thời gian,
Trong ngục tù tăm tối giữa nhân gian,
Nỗi lòng cụ Phan, thi ca người ái quốc.

Mỗi lời thơ từ đáy hồn non nước,
Ta ân cần trân trọng gởi cho em,
Cả máu tim mình trăn trở ngày đêm,
Cả khát vọng tuổi xuân bao tươi thắm,

Ta hãnh diện làm thầy cao quí lắm,
Dù khó khăn, không mặc cảm hơn thua,
Giữa giòng đời vẩn đục, chen đua,
Vẫn giữ được tấm lòng trong gương sáng,

Lời xưa đó, như vầng trăng toả rạng,
“Giang tâm như kính tĩnh vô trần”
Thế sự, nhân tình đổi trắng thay đen,
Thầy vẫn là ngọn đèn sáng trong tăm tối…

Monday, October 24, 2011

Đạo Phật giữa lòng người Việt

Đạo Phật giữa lòng người Việt
(Thạc sĩ Phạm Văn Cảnh)

Đạo Phật với tâm hồn người dân Việt chúng ta đã bao đời gắn bó, như tế bào, như hơi thở, là tình tự dân tộc, từng chia ngọt sẻ bùi trong mọi bước thăng trầm lịch sử. Mỗi khi vận nước nguy nan, sóng to gió lớn, thì tinh thần bất khuất quật khởi của dân tộc lại như ngọn thủy triều dâng lên, thể hiện lòng yêu nước mà chiến đấu, đó cũng chính là tinh thần vô úy của đạo Phật; mỗi khi gặp nghịch cảnh, không thuận lợi cho việc phát triển đất nước và đạo pháp, thì đạp Phật vẫn tùy duyên bất biến, giữ vững niềm tin và đức vô úy, cũng như dùng trí tuệ Bát Nhã, xóa bỏ vô minh thù hận tham si, để cứu độ chúng sinh vượt khỏi sông mê.

Có khi, gặp thuận cảnh, thì đạo Phật lại tham gia triều chính, quốc sự... tùy duyên hóa độ, mở ra những trang sử vừa rực rỡ của chiến công, vừa đầy lòng nhân ái của tình người và đại nghĩa. Triều Lý nước ta đã có những vị chân tu làm quốc sư, các vị quan lại là Phật tử, kiến thiết đất nước, xây dựng nhân sinh quan trên tư tưởng đạo Phật làm cho đất nước được phú cường, nhân dân hạnh phúc. Triều Trần, nước ta có vị anh hùng, Trần Nhân Tông lại là một thiền sư đắc đạo, mở ra cả một giòng thiền... Văn hóa của đạo Phật và văn hóa của dân tộc ta gắn bó với nhau hơn bao giờ hết.

Không chỉ dừng lại trong hạnh từ bi hay lòng nhân nghĩa, mà tinh thần vô úy, đại hùng đại lực còn kết hợp với tình yêu đất nước đã khiến các triều đại này lập nên bao chiến công hiển hách, để lại cho con cháu niềm kiêu hãnh ngàn đời : đánh Tống bình Chiêm, mở mang bờ cõi... Ba lần phá tan đạo quân Nguyên hung hãn và tàn bạo bậc nhất trong lịch sử chiến tranh xâm lược của loài người.

Cũng từ cái nôi của thời văn hóa thăng hoa Lý Trần mà các trào lưu tư tưởng đã ra đời : Sự xuất hiện của hai phái Thiền Thảo Đường (dưới triều Lý), Thiền Trúc Lâm (dưới triều Trần)... cùng với các tác phẩm văn hóa tiêu biểu, như : Chiếu Dời Đô, Nam Quốc Sơn Hà, Hịch Tướng Sĩ, Khóa Hư Lục, Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Điện U Linh Tập, Thiền Uyển Tập Anh... đã đánh dấu thời kỳ sáng tạo rực rỡ của văn hóa Việt. Không chỉ trên lĩnh vực tư tưởng, mà cả các tác phẩm binh thư võ công kiệt xuất, như : An Nam Hành Quân Pháp (đời Lý), Vạn Kiếp Bí Truyền Thư, Binh Thư Yếu Lược... (Trần Hưng Đạo), thể hiện sự độc sáng của dân Việt trên cơ sở tư tưởng đạo Phật, kết hợp cùng tinh thần Khổng và Lão giáo.

Thế cho nên không ai còn hoài nghi về sự gắn bó, thủy chung giữa tư tưởng đạo Phật và văn hóa Việt. Nó hòa quyện, chia sẻ với nhau trên suốt hành trình lịch sử, lúc nào đạo Phật hưng vượng thì đất nước được thái bình thịnh trị, lúc nào đạo Phật suy vi, gặp pháp nạn... thì vận nước cũng đảo điên.

Về nền văn học dân gian, chỉ xem qua kho tàng cổ tích Việt Nam (1), chắc không ai ngạc nhiên về hình ảnh của ông Bụt xuất hiện ở khắp mọi nơi, như một cái gì gần gũi gắn bó với tâm hồn Việt Nam từ rất sớm... Chỉ mỗi khi nguy nan, nhọc nhằn đau khổ, ức hiếp, bất công và tai nạn... thì ngọn gió từ bi trong lành, giọt nước cành dương tươi mát, lại xuất hiện trong mỗi hoạn nạn nhân gian để cứu khổn phò nguy, trừ tai giải họa... qua hình ảnh ông Bụt. Bụt trong Tấm Cám, Cây Tre Trăm Đốt, trong Chử Đồng Tử... và hầu hết các truyện cổ tích Việt Nam. Bụt khắp mọi nơi, trong nỗi đau khổ của nhân gian đều chờ đợi Bụt hiện ra... thật kỳ diệu lạ lùng...

Trong kho tàng ca dao có vô số câu dẫn chứng tư tưởng đạo Phật, về thuyết nhân quả, ở hiền gặp lành, làm ác gặp dữ, quả báo nhãn tiền, tu là cội phúc... chỉ cần dẫn một vài câu cũng chứa đủ cả triết lý thâm sâu lẫn thực hành ứng dụng:

Dẫu xây chín vạn phù đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một người

hoặc:

Không thờ lạy Phật trong nhà,
Lại đi thờ những quỷ ma ngoài đường.

hoặc:

Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa...

Theo các tài liệu nghiên cứu lịch sử gần đây, thì Đạo Phật đã đến với người Âu Lạc từ 240 năm trước Tây Lịch, vào thời đại Hùng Vương, qua các thương nhân Ấn Độ, Trung Á... bằng "con đường đồng cỏ", và các giòng sông Cửu Long (phát nguyên từ Tây Tạng), Hồng Hà, Hắc Giang... tiếp đó lại với "con đường hồ tiêu", trục lộ giao thông đường biển của các thương nhân vùng Địa Trung Hải, Trung Cận Đông, Ấn Độ sang buôn bán với Champa và người Giao Chỉ, sau đó đạo Phật mới đến bằng con đường lục địa từ Trung Quốc truyền sang... (2)

Thế cho nên, tư tưởng Phật đã mọc mầm bén rễ từ rất lâu đời, là nguồn trợ duyên đắc lực cho sự phát triển mọi mặt của nước ta.

Nhưng giòng sống Việt không phải lúc nào cũng thăng hoa, thuận lợi cho sự phát triển, mà bản thân xã hội ta, từ sau thế chiến, đang rơi vào một tình trạng phân hóa, diễn biến phức tạp. Qua bao biến chuyển của thời đại, giờ đây một thứ văn minh hình thức đang ngự trị : tư tưởng thực dụng chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa các ý thức hệ ngoại lai, sự sùng bái đồng tiền và vật chất nói chung, lòng ham mê hư danh bổng lộc, sự đảo lộn cương thường, phong hóa, sự phủ nhận các giá trị truyền thống, sự tha hóa của cá nhân, xuống cấp nhân cách của con người thời đại... tất cả thực trạng đó, đòi hỏi mỗi người dân Việt phải tìm hiểu lại cội gốc tư tưởng tinh hoa Việt, uống lại suối nguồn của lòng yêu thương vô ngã, của tinh thần từ bi trí tuệ, xây dựng nhân cách cao thượng của đạo Phật, đạo lý Đông Phương... để tu dưỡng mình và nhập thế trong hoàn cảnh hiện tại, làm những nhân tố phát triển cho thời đại mới, thức tỉnh lòng người, và đốt lên ngọn lửa tâm trong lành tươi mát... cho đất nước, giang sơn Việt, để mong còn có cơ hội thịnh vượng, thăng hoa...



Chú thích:
(1) Kho tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Nguyễn Đổng Chi, NXB. KHXH, Hà Nội, 1972.
(2) A Correlated History of The Far East - Maria Penkala - Tokyo, 1966.

Thursday, September 29, 2011

Tưởng nhớ cha

Tưởng nhớ cha


Đâu còn ai để con phải về sớm
Nên con làm việc tối hơn
Con không ngờ
Cả bầu trời sụp đổ
Chỗ dựa nay đâu rồi
con lảo đảo
độc hành !

Đâu còn ai để con khoe thành tích,
Những gì con đạt được,
Có cần nữa không,
Chut hư danh ảm đạm
Xưa,
Mỗi lần vẻ vang,
Có cha cho con hãnh diện,
Con đã lên một đỉnh
đứng ở một độ cao,

Bao câu chuyện thế sự,
con người, nước non, thời đại
Vị sĩ quan già
Rung hàm râu bạc,
Nay còn đâu !

Hành trình hôm nay,
Vốn liếng của cha,
Nỗi cô đơn thăm thẳm,
Đêm mịt mùng phía trước,
Con đi !

Phải,
Con không đau khổ nữa
Nguyễn Trãi trở về lo việc nước,
Nhát gươm chém xuống đá,
Phân minh.

Gaté, gaté paragaté, parasangaté, bodhishivaha

(Phạm Trường Linh)

Wednesday, September 14, 2011

KHÓC BỐ


KHÓC BỐ
Tưởng nhớ hương hồn Bố,
Cầu mong Bố sớm siêu sanh miền Cực Lạc


Bố ra đi quá bất ngờ
Để con ở lại ngẩn ngơ cõi lòng
Bố ơi, bố có biết không
Công ơn nuôi dưỡng những mong báo đền
Lời xưa nhớ mãi không quên
Tấm gương bố sống thảo hiền xưa nay
Hiếu trên, nhường dưới, thẳng ngay
Lo toan chu đáo, tròn đầy trước sau,
Con nguyền tiếp nối theo sau,
Giúp người, gieo hạt giống màu thiện chân
Quyết lòng báo đáp một phần
Công lao khó nhọc, mười ân sinh thành
Mong cho bố đặng siêu sanh
Về miền Cực lạc, an lành yên vui
Linh thiêng, bố hãy mĩm cười
A Di Đà Phật, Bố ơi… hướng về!

PQT

Wednesday, September 7, 2011

LỜI CẢM TẠ

LỜI CẢM TẠ

Gia đình chúng tôi xin chân thành cảm tạ : Chư vị Thượng tọa Đại Đức Tăng ni các chùa: Xá Lợi, Phước Hòa, Hoằng Pháp, Viện NC Phật học Việt Nam, Trường CC Phật học... Ban Giám Hiệu, Đảng ủy, HĐQT. và các giảng viên, nhân viên, sinh viên, học viên các trường: ĐH Ngoại Ngữ Tin Học TP. HCM, Khoa QLCN ĐHBK Tp.HCM, Trung Tâm Ngoại ngữ ĐH HUFLIT, các TT. Ngoại ngữ: Tân Phú, Chric, Style, Ban Phúc-BRVT, Hướng Dương-BRVT…, TT. Tin học Huflit, Trường Công nghệ Bách Khoa Tp.HCM, Trường PTTH. Nguyễn Khuyến, Trường PTTH. Nguyễn Trãi, TT. Giới thiệu việc làm Bến Tre..., Công ty SabMiller VietNam, Công ty TNHH. Nam Giang, Công ty nhựa Phú Mỹ..., gia đình Phật tử Chánh đạo, các sư huynh đệ Vĩnh Xuân Quyền Tp.HCM, Vĩnh Xuân nội gia quyền (Hà Nội), các đệ tử nhóm VXQ phái (Lê Thị Riêng), các ban ngành, đoàn thể cùng toàn thể quyến thuộc nội ngoại, thông gia, bạn hữu xa gần, bà con lối xóm... đã đến chia buồn, phúng viếng và đưa tiễn chồng, cha, ông chúng tôi là ông: Phạm Văn Cảnh, thọ 62 tuổi, đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Gia đình chúng tôi xin ghi nhớ sâu xa tất cả những tình cảm tốt đẹp, chân thành mà quí vị đã chia sẻ với gia đình chúng tôi. Trong lúc tang gia bối rối, có những điều sơ sót không tránh được, kính xin quí vị rộng lòng tha thứ.

Bà quả phụ Trần Thị Hồng Anh, các con, dâu, rể và cháu

Thursday, August 25, 2011

Tự nguyện

Tự nguyện
Sáng tác: Trương Quốc Khánh
Thể hiện: NSND Trần Khánh

Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương

Là chim, tôi sẽ cất cao đôi cánh mềm
Từ Nam ra ngoài Bắc báo tin nối liền
Là hoa, tôi nở tình yêu ban sớm
Cùng muôn trái tim ngất ngây hoà bình

Là mây, theo làn gió tung bay khắp trời
Nghìn xưa oai hùng đó tôi xin tiếp lời
Là người, xin một lần khi nằm xuống
Nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ...


Thursday, August 11, 2011

Nhân mùa Vu Lan nghĩ về chữ Hiếu


Thời gian trôi qua nhanh thật! Mới đây, mà một mùa Vu Lan nữa lại đã về!

Rằm tháng 7 - Mùa Vu Lan báo hiếu là một mùa lễ có rất nhiều ý nghĩa đối với những người con Phật khắp nơi trên thế giới. Đây là thời điểm mà những người con hiếu thảo thường nghĩ cách để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ bằng cách phụng dưỡng, quan tâm, chăm sóc (nếu còn sống) hoặc làm lễ cầu siêu, phóng sanh, tạo phước để hồi hướng cho cha mẹ (nếu đã mất).

Còn nhớ, ở Nhật mùa Vu Lan gắn liền với lễ O-Bon, 1 trong những ngày lễ lớn ở Nhật. Đây là dịp nghỉ lễ tương đối dài của người Nhật. Vào dịp này, mọi người thường về quê thăm viếng cha mẹ, hoặc đi tảo mộ, thắp hương, cầu nguyện an lành cho những người thân đã mất. Lễ O-Bon còn được kết hợp với nhiều tục lệ như: ngắm đom đóm, bắn pháo hoa, hoặc đốt lửa ở trên núi... với ý nghĩa cầu mong sự giải thoát, siêu thăng cho những người đã mất. Về bản chất, cho dù có khác biệt về văn hóa, xứ sở, lễ Vu Lan vẫn chứa đựng trong nó nét đẹp truyền thống, đó là tôn vinh chữ HIẾU.

Ở Việt Nam mình, từ xưa đến này, tinh thần hiếu thảo của đạo Phật đã hòa quyện với tinh thần truyền thống của dân tộc, như: biết ơn, hiếu kính người già, coi trọng tình cảm gia đình... Đó là một truyền thống quý báu đã được phát triển và duy trì qua nhiều thế hệ cho đến ngày nay. Một điểm đặc sắc của chữ Hiếu trong văn hóa Việt Nam là nó đã được mở rộng và khai triển theo nhiều chiều kích ngữ nghĩa khác nhau.

Trong Phật giáo Việt Nam, chữ Hiếu với cha mẹ đã được mở rộng đến hiếu thảo với cha mẹ chín đời, và sau cùng là hiếu thảo với tất cả chúng sanh. Hay nói khác hơn, chữ Hiếu lúc này đồng nghĩa với chữ Từ Bi trong nhà Phật, là thương yêu tất cả mọi người. Trong kinh Vu Lan, có đoạn kể về câu chuyện Đức Phật quỳ lạy đống xương khô khi cùng đệ tử đi qua khu đồng trống. Đệ tử ngạc nhiên mới hỏi Phật vì sao lại làm như thế. Phật trả lời, vì con người trong vô số kiếp tái sinh trên cuộc đời này, nên hầu như ai cũng có ít nhiều quan hệ với nhau, rất có thể trong đống xương khô kia, có xương của cha mẹ nhiều đời của ta trong đó, vì vậy ta mới đảnh lễ. Từ đó, Đức Phật mới triển khai ý nghĩa của chữ Hiếu và 4 trọng ân cần phải báo đáp. Đó là: ơn cha mẹ, ơn thầy tổ, ơn đất nước và ơn chúng sanh. Chính trên tinh thần chữ Hiếu, mà mỗi người thấy mình sinh ra trên cuộc đời đã nhận được ơn đức rất nhiều, nên cần phải nổ lực tu học, làm việc, đóng góp vào cuộc đời để báo đáp phần nào ơn đức to lớn đó. Vì vậy, đối với người con Phật, hiếu thảo trở thành một đức tính hàng đầu và được xem là một nghĩa vụ đương nhiên của mỗi người, cũng đơn giản như có vay thì có trả vậy.

Trong cuộc sống thế gian, chữ Hiếu của gia đình đã được mở rộng thành hiếu với mọi người trong xã hội, hay nói theo thành ngữ thường nghe trong giới công chức nhà nước là "Trung với nước, Hiếu với dân". Một cách vô tình, hiếu với dân cũng đồng nghĩa với hiếu với tất cả mọi người vậy. Câu này, đặt người dân ở vị trí của "cha mẹ", người công chức phải biết hiếu thảo để đền đáp ơn "cha mẹ", tức người dân, đã đóng thuế nuôi mình vậy. Điều này, quả khác với thực tế nhận thức sai lệch của nhiều công chức hiện nay, coi mình như cha mẹ của dân (quan chi phụ mẫu) và bắt dân phải "hiếu thảo" với mình. Điều này cần phải chấn chỉnh để chữ Hiếu đạt được ý nghĩa trọn vẹn của nó. Đó là một quan hệ 2 chiều, dân sẽ biết ơn nhà nước nếu nhà nước hết lòng phục vụ lợi ích của dân, của nước, đổi lại, nhà nước cũng phải biết ơn nhân dân, vì đó là người đóng thuế để nuôi guồng máy nhà nước hoạt động.

Như vậy, quả là người Việt Nam đã hiểu chữ Hiếu một cách rất là sâu sắc. Ta thấy rằng, hai thành phần cốt lõi trong chữ Hiếu đó là biết ơn và đền ơn. Mà trong thực tế cuộc sống, ta phải nhận ơn từ rất nhiều người để có cuộc sống hôm này. Không chỉ nhận tấm thân từ cha mẹ, mà ta còn nhận rất nhiều thứ về vật chất và cả tinh thần từ mọi người xung quanh để có thể lớn khôn, thành người như ngày hôm nay. Vì vậy, hiếu với tất cả mọi người cũng là điều đương nhiên. Cốt lõi của lòng hiếu thảo là nuôi dưỡng trong tim lòng biết ơn thường trực, lúc nào cũng thấy mình đã và đang được hưởng rất nhiều ơn đức, vì vậy mà càng phải nỗ lực phấn đấu để mong đáp trả những ơn đức đó. Thành ngữ Việt Nam có rất nhiều câu dạy về lòng biết ơn, như: "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "uống nước nhớ nguồn"... Chính từ nền tảng của lòng hiếu thảo, biết ơn đó, mà những đức tính tốt đẹp khác mới đâm hoa, kết trái, và mang lại hương sắc cho đời.

Người Việt Nam càng trọng người có hiếu bao nhiêu, thì càng ghét bọn bất hiếu bấy nhiêu. Vì vậy, ta thường thấy trong các câu chuyện dân gian, kết cục đối với những đứa bất hiếu thường là bị trời đánh chết. Gần đây, hiện tượng quan tham tràn lan, công chức xách nhiễu dân, công an đạp vào mặt dân... là những biểu hiện trái với truyền thống "hiếu với dân" của cha ông ta. Để khắc phục tình trạng này, những người công bộc của dân nên học lại bài học "hiếu với dân" để tránh không bị mang tiếng là quân bất hiếu.

Nhân mùa Vu Lan năm nay, xin chúc mọi người luôn thân tâm an lạc, vạn sự kiết tường như ý! Mong mọi người hãy cùng nhau thắp lên một nén tâm hương, để cùng hiểu thêm ý nghĩa của chữ Hiếu, cũng như áp dụng bài học cao đẹp của lòng biết ơn vào cuộc sống hằng ngày vậy.

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát!

Mùa Vu Lan - 2011