Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Friday, November 18, 2011

Thành công vĩ đại là thành quả của lao động vĩ đại

Great success is the fruit of great labour

Generally speaking, the life of all truly great men has been a life of intense and incessant labour. They have commonly passed the first half of life in the gross darkness of indigent humility, overlooked, mistaken, contemned by weaker men; thinking while others slept, reading while others rioted; and then, when their time was come, and some little accident has given them their first occasion, they have burst out into the light and glory of public life, rich with the spoils of time; then do the multitude cry out “a miracle of genius !”Yes, he is a miracle of genius, because he is a miracle of labour; because, instead of trusting to the resources of his own single mind, he has ransacked a thousand minds; because he makes use of the accumulated wisdom of ages….

Sidney Smith



Thành công vĩ đại là thành quả của lao động vĩ đại

Nói chung, cuộc đời của tất cả những người thật sự vĩ đại là một cuộc đời làm việc tràn đầy nhiệt huyết, không hề ngừng nghỉ. Họ thường trải qua một nửa đầu cuộc đời trong màn đêm mênh mông với sự khiêm tốn nhún nhường của những kẻ khốn cùng “mắt mù mặt cúi” bị những kẻ kém cỏi xem thường, ngộ nhận, khinh khi; họ suy nghĩ trong khi những người khác đã ngủ yên, họ đọc sách trong khi những kẻ khác ăn chơi trác táng; và sau đó, khi thời điểm đến, và vài cơ duyên nhỏ đã cho họ cơ hội đầu tiên, họ nhanh chóng bật sáng, vinh quang trong đời sống xã hội, làm giàu kiến thức và kinh nghiệm bằng tận dụng thời gian; sau đó, thiên hạ sẽ thốt lên : “Sự mầu nhiệm của thiên tài” .
Vâng, anh ta là một thiên tài kỳ diệu, bởi anh ta là người lao động kỳ diệu, và thay vì tin tưởng vào nguồn tri thức đơn độc của mình, anh ta đã lục tìm cả ngàn tư tưởng, bởi anh ta đã tận dụng được trí tuệ tích luỹ trong nhiều thời đại …

(sưu tầm)

Wednesday, November 9, 2011

Vẫn sáng trong tăm tối

Vẫn sáng trong tăm tối

Phạm Trường Linh


Trước cửa tương lai, chọn nghề thầy giáo
Chẳng vì công danh chẳng vì cơm áo,
Chỉ vì tương lai và niềm hy vọng
Hôm nay trồng người cho trăm năm sau...

Đó là nghiệp chẳng phải nghề kiếm sống
Lòng con buôn sao hiểu được lòng thầy
Đời tuy khó ta sống thanh bần vậy
Đạo lương sư chỉ biết giữ lòng ngay

Cánh hoa sen dễ gì bùn vẩn đục,
Mặc dù sen vẫn sống giữa ao lầy
Đời có hiểu hay không, ta cũng mặc
Tự ngàn xưa, phú quí có bao thầy

Và tâm sự cả một bầu nhiệt huyết
Trong trái tim, mạch sống ta dâng đầy
Ta gởi đến cho tuổi xanh băng tuyết,
Những hồn thơ trong sáng và thơ ngây,

Bao tinh hoa lấy ra từ cuộc sống,
Đãi lọc từ lịch sử bốn nghìn năm,
Để nuôi dưỡng những mầm xanh hy vọng,
Trong mỗi trái tim, mỗi ánh lửa hồng,

Ta chuyển đến em những vần thơ rực lửa,
Hai Bà Trưng, Lê Lợi đến Quang Trung,
Từ Đinh, Lý, Trần vàng son rạng rỡ,
Đến hôm nay tổ quốc vẫn anh hùng.

Đây những trái tim tình yêu tha thiết,
Đau số phận người, ta khóc với Nguyễn Du,
Thương Thuý Kiều giọt nước mắt nghìn thu,
Từ Kim Trọng đến Thúc sinh, Từ Hải,

Những đớn đau từ ngàn xưa vọng lại,
Kết tinh bằng máu huyết của thời gian,
Trong ngục tù tăm tối giữa nhân gian,
Nỗi lòng cụ Phan, thi ca người ái quốc.

Mỗi lời thơ từ đáy hồn non nước,
Ta ân cần trân trọng gởi cho em,
Cả máu tim mình trăn trở ngày đêm,
Cả khát vọng tuổi xuân bao tươi thắm,

Ta hãnh diện làm thầy cao quí lắm,
Dù khó khăn, không mặc cảm hơn thua,
Giữa giòng đời vẩn đục, chen đua,
Vẫn giữ được tấm lòng trong gương sáng,

Lời xưa đó, như vầng trăng toả rạng,
“Giang tâm như kính tĩnh vô trần”
Thế sự, nhân tình đổi trắng thay đen,
Thầy vẫn là ngọn đèn sáng trong tăm tối…

Monday, October 24, 2011

Đạo Phật giữa lòng người Việt

Đạo Phật giữa lòng người Việt
(Thạc sĩ Phạm Văn Cảnh)

Đạo Phật với tâm hồn người dân Việt chúng ta đã bao đời gắn bó, như tế bào, như hơi thở, là tình tự dân tộc, từng chia ngọt sẻ bùi trong mọi bước thăng trầm lịch sử. Mỗi khi vận nước nguy nan, sóng to gió lớn, thì tinh thần bất khuất quật khởi của dân tộc lại như ngọn thủy triều dâng lên, thể hiện lòng yêu nước mà chiến đấu, đó cũng chính là tinh thần vô úy của đạo Phật; mỗi khi gặp nghịch cảnh, không thuận lợi cho việc phát triển đất nước và đạo pháp, thì đạp Phật vẫn tùy duyên bất biến, giữ vững niềm tin và đức vô úy, cũng như dùng trí tuệ Bát Nhã, xóa bỏ vô minh thù hận tham si, để cứu độ chúng sinh vượt khỏi sông mê.

Có khi, gặp thuận cảnh, thì đạo Phật lại tham gia triều chính, quốc sự... tùy duyên hóa độ, mở ra những trang sử vừa rực rỡ của chiến công, vừa đầy lòng nhân ái của tình người và đại nghĩa. Triều Lý nước ta đã có những vị chân tu làm quốc sư, các vị quan lại là Phật tử, kiến thiết đất nước, xây dựng nhân sinh quan trên tư tưởng đạo Phật làm cho đất nước được phú cường, nhân dân hạnh phúc. Triều Trần, nước ta có vị anh hùng, Trần Nhân Tông lại là một thiền sư đắc đạo, mở ra cả một giòng thiền... Văn hóa của đạo Phật và văn hóa của dân tộc ta gắn bó với nhau hơn bao giờ hết.

Không chỉ dừng lại trong hạnh từ bi hay lòng nhân nghĩa, mà tinh thần vô úy, đại hùng đại lực còn kết hợp với tình yêu đất nước đã khiến các triều đại này lập nên bao chiến công hiển hách, để lại cho con cháu niềm kiêu hãnh ngàn đời : đánh Tống bình Chiêm, mở mang bờ cõi... Ba lần phá tan đạo quân Nguyên hung hãn và tàn bạo bậc nhất trong lịch sử chiến tranh xâm lược của loài người.

Cũng từ cái nôi của thời văn hóa thăng hoa Lý Trần mà các trào lưu tư tưởng đã ra đời : Sự xuất hiện của hai phái Thiền Thảo Đường (dưới triều Lý), Thiền Trúc Lâm (dưới triều Trần)... cùng với các tác phẩm văn hóa tiêu biểu, như : Chiếu Dời Đô, Nam Quốc Sơn Hà, Hịch Tướng Sĩ, Khóa Hư Lục, Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Điện U Linh Tập, Thiền Uyển Tập Anh... đã đánh dấu thời kỳ sáng tạo rực rỡ của văn hóa Việt. Không chỉ trên lĩnh vực tư tưởng, mà cả các tác phẩm binh thư võ công kiệt xuất, như : An Nam Hành Quân Pháp (đời Lý), Vạn Kiếp Bí Truyền Thư, Binh Thư Yếu Lược... (Trần Hưng Đạo), thể hiện sự độc sáng của dân Việt trên cơ sở tư tưởng đạo Phật, kết hợp cùng tinh thần Khổng và Lão giáo.

Thế cho nên không ai còn hoài nghi về sự gắn bó, thủy chung giữa tư tưởng đạo Phật và văn hóa Việt. Nó hòa quyện, chia sẻ với nhau trên suốt hành trình lịch sử, lúc nào đạo Phật hưng vượng thì đất nước được thái bình thịnh trị, lúc nào đạo Phật suy vi, gặp pháp nạn... thì vận nước cũng đảo điên.

Về nền văn học dân gian, chỉ xem qua kho tàng cổ tích Việt Nam (1), chắc không ai ngạc nhiên về hình ảnh của ông Bụt xuất hiện ở khắp mọi nơi, như một cái gì gần gũi gắn bó với tâm hồn Việt Nam từ rất sớm... Chỉ mỗi khi nguy nan, nhọc nhằn đau khổ, ức hiếp, bất công và tai nạn... thì ngọn gió từ bi trong lành, giọt nước cành dương tươi mát, lại xuất hiện trong mỗi hoạn nạn nhân gian để cứu khổn phò nguy, trừ tai giải họa... qua hình ảnh ông Bụt. Bụt trong Tấm Cám, Cây Tre Trăm Đốt, trong Chử Đồng Tử... và hầu hết các truyện cổ tích Việt Nam. Bụt khắp mọi nơi, trong nỗi đau khổ của nhân gian đều chờ đợi Bụt hiện ra... thật kỳ diệu lạ lùng...

Trong kho tàng ca dao có vô số câu dẫn chứng tư tưởng đạo Phật, về thuyết nhân quả, ở hiền gặp lành, làm ác gặp dữ, quả báo nhãn tiền, tu là cội phúc... chỉ cần dẫn một vài câu cũng chứa đủ cả triết lý thâm sâu lẫn thực hành ứng dụng:

Dẫu xây chín vạn phù đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một người

hoặc:

Không thờ lạy Phật trong nhà,
Lại đi thờ những quỷ ma ngoài đường.

hoặc:

Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa...

Theo các tài liệu nghiên cứu lịch sử gần đây, thì Đạo Phật đã đến với người Âu Lạc từ 240 năm trước Tây Lịch, vào thời đại Hùng Vương, qua các thương nhân Ấn Độ, Trung Á... bằng "con đường đồng cỏ", và các giòng sông Cửu Long (phát nguyên từ Tây Tạng), Hồng Hà, Hắc Giang... tiếp đó lại với "con đường hồ tiêu", trục lộ giao thông đường biển của các thương nhân vùng Địa Trung Hải, Trung Cận Đông, Ấn Độ sang buôn bán với Champa và người Giao Chỉ, sau đó đạo Phật mới đến bằng con đường lục địa từ Trung Quốc truyền sang... (2)

Thế cho nên, tư tưởng Phật đã mọc mầm bén rễ từ rất lâu đời, là nguồn trợ duyên đắc lực cho sự phát triển mọi mặt của nước ta.

Nhưng giòng sống Việt không phải lúc nào cũng thăng hoa, thuận lợi cho sự phát triển, mà bản thân xã hội ta, từ sau thế chiến, đang rơi vào một tình trạng phân hóa, diễn biến phức tạp. Qua bao biến chuyển của thời đại, giờ đây một thứ văn minh hình thức đang ngự trị : tư tưởng thực dụng chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa các ý thức hệ ngoại lai, sự sùng bái đồng tiền và vật chất nói chung, lòng ham mê hư danh bổng lộc, sự đảo lộn cương thường, phong hóa, sự phủ nhận các giá trị truyền thống, sự tha hóa của cá nhân, xuống cấp nhân cách của con người thời đại... tất cả thực trạng đó, đòi hỏi mỗi người dân Việt phải tìm hiểu lại cội gốc tư tưởng tinh hoa Việt, uống lại suối nguồn của lòng yêu thương vô ngã, của tinh thần từ bi trí tuệ, xây dựng nhân cách cao thượng của đạo Phật, đạo lý Đông Phương... để tu dưỡng mình và nhập thế trong hoàn cảnh hiện tại, làm những nhân tố phát triển cho thời đại mới, thức tỉnh lòng người, và đốt lên ngọn lửa tâm trong lành tươi mát... cho đất nước, giang sơn Việt, để mong còn có cơ hội thịnh vượng, thăng hoa...



Chú thích:
(1) Kho tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam - Nguyễn Đổng Chi, NXB. KHXH, Hà Nội, 1972.
(2) A Correlated History of The Far East - Maria Penkala - Tokyo, 1966.

Thursday, September 29, 2011

Tưởng nhớ cha

Tưởng nhớ cha


Đâu còn ai để con phải về sớm
Nên con làm việc tối hơn
Con không ngờ
Cả bầu trời sụp đổ
Chỗ dựa nay đâu rồi
con lảo đảo
độc hành !

Đâu còn ai để con khoe thành tích,
Những gì con đạt được,
Có cần nữa không,
Chut hư danh ảm đạm
Xưa,
Mỗi lần vẻ vang,
Có cha cho con hãnh diện,
Con đã lên một đỉnh
đứng ở một độ cao,

Bao câu chuyện thế sự,
con người, nước non, thời đại
Vị sĩ quan già
Rung hàm râu bạc,
Nay còn đâu !

Hành trình hôm nay,
Vốn liếng của cha,
Nỗi cô đơn thăm thẳm,
Đêm mịt mùng phía trước,
Con đi !

Phải,
Con không đau khổ nữa
Nguyễn Trãi trở về lo việc nước,
Nhát gươm chém xuống đá,
Phân minh.

Gaté, gaté paragaté, parasangaté, bodhishivaha

(Phạm Trường Linh)

Wednesday, September 14, 2011

KHÓC BỐ


KHÓC BỐ
Tưởng nhớ hương hồn Bố,
Cầu mong Bố sớm siêu sanh miền Cực Lạc


Bố ra đi quá bất ngờ
Để con ở lại ngẩn ngơ cõi lòng
Bố ơi, bố có biết không
Công ơn nuôi dưỡng những mong báo đền
Lời xưa nhớ mãi không quên
Tấm gương bố sống thảo hiền xưa nay
Hiếu trên, nhường dưới, thẳng ngay
Lo toan chu đáo, tròn đầy trước sau,
Con nguyền tiếp nối theo sau,
Giúp người, gieo hạt giống màu thiện chân
Quyết lòng báo đáp một phần
Công lao khó nhọc, mười ân sinh thành
Mong cho bố đặng siêu sanh
Về miền Cực lạc, an lành yên vui
Linh thiêng, bố hãy mĩm cười
A Di Đà Phật, Bố ơi… hướng về!

PQT

Wednesday, September 7, 2011

LỜI CẢM TẠ

LỜI CẢM TẠ

Gia đình chúng tôi xin chân thành cảm tạ : Chư vị Thượng tọa Đại Đức Tăng ni các chùa: Xá Lợi, Phước Hòa, Hoằng Pháp, Viện NC Phật học Việt Nam, Trường CC Phật học... Ban Giám Hiệu, Đảng ủy, HĐQT. và các giảng viên, nhân viên, sinh viên, học viên các trường: ĐH Ngoại Ngữ Tin Học TP. HCM, Khoa QLCN ĐHBK Tp.HCM, Trung Tâm Ngoại ngữ ĐH HUFLIT, các TT. Ngoại ngữ: Tân Phú, Chric, Style, Ban Phúc-BRVT, Hướng Dương-BRVT…, TT. Tin học Huflit, Trường Công nghệ Bách Khoa Tp.HCM, Trường PTTH. Nguyễn Khuyến, Trường PTTH. Nguyễn Trãi, TT. Giới thiệu việc làm Bến Tre..., Công ty SabMiller VietNam, Công ty TNHH. Nam Giang, Công ty nhựa Phú Mỹ..., gia đình Phật tử Chánh đạo, các sư huynh đệ Vĩnh Xuân Quyền Tp.HCM, Vĩnh Xuân nội gia quyền (Hà Nội), các đệ tử nhóm VXQ phái (Lê Thị Riêng), các ban ngành, đoàn thể cùng toàn thể quyến thuộc nội ngoại, thông gia, bạn hữu xa gần, bà con lối xóm... đã đến chia buồn, phúng viếng và đưa tiễn chồng, cha, ông chúng tôi là ông: Phạm Văn Cảnh, thọ 62 tuổi, đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Gia đình chúng tôi xin ghi nhớ sâu xa tất cả những tình cảm tốt đẹp, chân thành mà quí vị đã chia sẻ với gia đình chúng tôi. Trong lúc tang gia bối rối, có những điều sơ sót không tránh được, kính xin quí vị rộng lòng tha thứ.

Bà quả phụ Trần Thị Hồng Anh, các con, dâu, rể và cháu

Thursday, August 25, 2011

Tự nguyện

Tự nguyện
Sáng tác: Trương Quốc Khánh
Thể hiện: NSND Trần Khánh

Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương

Là chim, tôi sẽ cất cao đôi cánh mềm
Từ Nam ra ngoài Bắc báo tin nối liền
Là hoa, tôi nở tình yêu ban sớm
Cùng muôn trái tim ngất ngây hoà bình

Là mây, theo làn gió tung bay khắp trời
Nghìn xưa oai hùng đó tôi xin tiếp lời
Là người, xin một lần khi nằm xuống
Nhìn anh em đứng lên phất cao ngọn cờ...


Thursday, August 11, 2011

Nhân mùa Vu Lan nghĩ về chữ Hiếu


Thời gian trôi qua nhanh thật! Mới đây, mà một mùa Vu Lan nữa lại đã về!

Rằm tháng 7 - Mùa Vu Lan báo hiếu là một mùa lễ có rất nhiều ý nghĩa đối với những người con Phật khắp nơi trên thế giới. Đây là thời điểm mà những người con hiếu thảo thường nghĩ cách để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ bằng cách phụng dưỡng, quan tâm, chăm sóc (nếu còn sống) hoặc làm lễ cầu siêu, phóng sanh, tạo phước để hồi hướng cho cha mẹ (nếu đã mất).

Còn nhớ, ở Nhật mùa Vu Lan gắn liền với lễ O-Bon, 1 trong những ngày lễ lớn ở Nhật. Đây là dịp nghỉ lễ tương đối dài của người Nhật. Vào dịp này, mọi người thường về quê thăm viếng cha mẹ, hoặc đi tảo mộ, thắp hương, cầu nguyện an lành cho những người thân đã mất. Lễ O-Bon còn được kết hợp với nhiều tục lệ như: ngắm đom đóm, bắn pháo hoa, hoặc đốt lửa ở trên núi... với ý nghĩa cầu mong sự giải thoát, siêu thăng cho những người đã mất. Về bản chất, cho dù có khác biệt về văn hóa, xứ sở, lễ Vu Lan vẫn chứa đựng trong nó nét đẹp truyền thống, đó là tôn vinh chữ HIẾU.

Ở Việt Nam mình, từ xưa đến này, tinh thần hiếu thảo của đạo Phật đã hòa quyện với tinh thần truyền thống của dân tộc, như: biết ơn, hiếu kính người già, coi trọng tình cảm gia đình... Đó là một truyền thống quý báu đã được phát triển và duy trì qua nhiều thế hệ cho đến ngày nay. Một điểm đặc sắc của chữ Hiếu trong văn hóa Việt Nam là nó đã được mở rộng và khai triển theo nhiều chiều kích ngữ nghĩa khác nhau.

Trong Phật giáo Việt Nam, chữ Hiếu với cha mẹ đã được mở rộng đến hiếu thảo với cha mẹ chín đời, và sau cùng là hiếu thảo với tất cả chúng sanh. Hay nói khác hơn, chữ Hiếu lúc này đồng nghĩa với chữ Từ Bi trong nhà Phật, là thương yêu tất cả mọi người. Trong kinh Vu Lan, có đoạn kể về câu chuyện Đức Phật quỳ lạy đống xương khô khi cùng đệ tử đi qua khu đồng trống. Đệ tử ngạc nhiên mới hỏi Phật vì sao lại làm như thế. Phật trả lời, vì con người trong vô số kiếp tái sinh trên cuộc đời này, nên hầu như ai cũng có ít nhiều quan hệ với nhau, rất có thể trong đống xương khô kia, có xương của cha mẹ nhiều đời của ta trong đó, vì vậy ta mới đảnh lễ. Từ đó, Đức Phật mới triển khai ý nghĩa của chữ Hiếu và 4 trọng ân cần phải báo đáp. Đó là: ơn cha mẹ, ơn thầy tổ, ơn đất nước và ơn chúng sanh. Chính trên tinh thần chữ Hiếu, mà mỗi người thấy mình sinh ra trên cuộc đời đã nhận được ơn đức rất nhiều, nên cần phải nổ lực tu học, làm việc, đóng góp vào cuộc đời để báo đáp phần nào ơn đức to lớn đó. Vì vậy, đối với người con Phật, hiếu thảo trở thành một đức tính hàng đầu và được xem là một nghĩa vụ đương nhiên của mỗi người, cũng đơn giản như có vay thì có trả vậy.

Trong cuộc sống thế gian, chữ Hiếu của gia đình đã được mở rộng thành hiếu với mọi người trong xã hội, hay nói theo thành ngữ thường nghe trong giới công chức nhà nước là "Trung với nước, Hiếu với dân". Một cách vô tình, hiếu với dân cũng đồng nghĩa với hiếu với tất cả mọi người vậy. Câu này, đặt người dân ở vị trí của "cha mẹ", người công chức phải biết hiếu thảo để đền đáp ơn "cha mẹ", tức người dân, đã đóng thuế nuôi mình vậy. Điều này, quả khác với thực tế nhận thức sai lệch của nhiều công chức hiện nay, coi mình như cha mẹ của dân (quan chi phụ mẫu) và bắt dân phải "hiếu thảo" với mình. Điều này cần phải chấn chỉnh để chữ Hiếu đạt được ý nghĩa trọn vẹn của nó. Đó là một quan hệ 2 chiều, dân sẽ biết ơn nhà nước nếu nhà nước hết lòng phục vụ lợi ích của dân, của nước, đổi lại, nhà nước cũng phải biết ơn nhân dân, vì đó là người đóng thuế để nuôi guồng máy nhà nước hoạt động.

Như vậy, quả là người Việt Nam đã hiểu chữ Hiếu một cách rất là sâu sắc. Ta thấy rằng, hai thành phần cốt lõi trong chữ Hiếu đó là biết ơn và đền ơn. Mà trong thực tế cuộc sống, ta phải nhận ơn từ rất nhiều người để có cuộc sống hôm này. Không chỉ nhận tấm thân từ cha mẹ, mà ta còn nhận rất nhiều thứ về vật chất và cả tinh thần từ mọi người xung quanh để có thể lớn khôn, thành người như ngày hôm nay. Vì vậy, hiếu với tất cả mọi người cũng là điều đương nhiên. Cốt lõi của lòng hiếu thảo là nuôi dưỡng trong tim lòng biết ơn thường trực, lúc nào cũng thấy mình đã và đang được hưởng rất nhiều ơn đức, vì vậy mà càng phải nỗ lực phấn đấu để mong đáp trả những ơn đức đó. Thành ngữ Việt Nam có rất nhiều câu dạy về lòng biết ơn, như: "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", "uống nước nhớ nguồn"... Chính từ nền tảng của lòng hiếu thảo, biết ơn đó, mà những đức tính tốt đẹp khác mới đâm hoa, kết trái, và mang lại hương sắc cho đời.

Người Việt Nam càng trọng người có hiếu bao nhiêu, thì càng ghét bọn bất hiếu bấy nhiêu. Vì vậy, ta thường thấy trong các câu chuyện dân gian, kết cục đối với những đứa bất hiếu thường là bị trời đánh chết. Gần đây, hiện tượng quan tham tràn lan, công chức xách nhiễu dân, công an đạp vào mặt dân... là những biểu hiện trái với truyền thống "hiếu với dân" của cha ông ta. Để khắc phục tình trạng này, những người công bộc của dân nên học lại bài học "hiếu với dân" để tránh không bị mang tiếng là quân bất hiếu.

Nhân mùa Vu Lan năm nay, xin chúc mọi người luôn thân tâm an lạc, vạn sự kiết tường như ý! Mong mọi người hãy cùng nhau thắp lên một nén tâm hương, để cùng hiểu thêm ý nghĩa của chữ Hiếu, cũng như áp dụng bài học cao đẹp của lòng biết ơn vào cuộc sống hằng ngày vậy.

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát!

Mùa Vu Lan - 2011

Tuesday, August 2, 2011

Việt Nam Sử Lược

Vừa rồi, nhân đọc bài báo "Điểm thi môn sử thấp không ngờ" trên Tuổi Trẻ Online (26/7/2011) lòng chợt buồn nhưng không quá ngạc nhiên. Bài báo nói về tỷ lệ cao bất thường của thí sinh có điểm dưới trung bình môn Sử trong kết quả thi tuyển sinh Đại Học năm nay. Qua bài báo, ta biết được "nhiều trường ĐH có trên 98% bài thi môn sử dưới điểm trung bình. Thậm chí có trường chỉ một thí sinh đạt điểm trung bình môn sử". Đó là một kết quả bất thường phản ánh việc giáo dục môn Lịch sử ở nước ta đang có vấn đề nghiêm trọng.
Sở dĩ, vấn đề này không gây bất ngờ cho tôi bởi nó đã được cảnh báo bởi nhiều nhà giáo dục có tâm huyết từ nhiều năm nay. Đó là thực trạng học sinh thờ ơ với môn Sử, kiến thức về lịch sử nước nhà thì mơ hồ trong khi lịch sử Tàu thì lại rất rõ, việc phân phối chương trình giáo khoa Sử không phù hợp với các cấp lớp... Trong khi đó những nhà quản lý giáo dục của ta mãi chạy theo những phong trào này nọ, đề ra những chỉ tiêu xa vời thiếu thực tế, trong khi đời sống nhà giáo không được cải thiện, việc xã hội hóa giáo dục gắn liền với việc tăng thu từ phụ huynh hay đẩy gánh nặng trách nhiệm về phía người dân... Vì vậy, kết quả trên chính là phản ánh một thực tế hiển nhiên, như có nhân ắt có quả. Nó cho thấy một góc nhìn về thực trạng giáo dục của Việt Nam đang xuống cấp như thế nào.
Tuy nhiên, có một điều làm tôi buồn và ngạc nhiên hơn đó là khi đọc bài trả lời phỏng vấn của Bộ trưởng Bộ GDĐT trên báo SGGP (30/7/2011), ông xem kết quả trên là bình thường, và nước nào mà chẳng vậy. Điều này, có nghĩa là đối với ông, người đứng đầu ngành giáo dục, thì vấn đề trên chẳng có gì là nghiêm trọng, và không có gì cần phải chỉnh sửa, thay đổi cả.
Buồn vì thấy rằng thực trạng "dốt sử" ở nước ta đã được cụ Trần Trọng Kim nói đến trong Việt Nam Sử Lược từ rất lâu rồi, nhưng xem ra những lời nhắc nhở của cụ vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.
Chép lại lời tựa trong cuốn Việt Nam Sử Lược của cụ Trần Trọng Kim, để nhắc nhở mọi người về tầm quan trọng của việc học và hiểu lịch sử nước nhà, hiểu được giá trị của môn lịch sử đối với việc giáo dục lòng yêu nước, đến sự tồn vong và phát triển của cả dân tộc và đất nước.

=========================

Lời Tựa Việt Nam Sử Lược

Sử là sách không những chỉ để ghi chép những công việc đã qua mà thôi, nhưng lại phải suy xét việc gốc ngọn, tìm tòi cái căn nguyên những công việc của người ta đã làm để hiểu cho rõ những vận hội trị loạn của một nước, những trình độ tiến hóa của một dân tộc. Chủ đích là để làm cái gương chung cổ cho người cả nước được đời đời soi vào đấy mà biết cái sự sinh hoạt của người trước đã phải lao tâm lao lực những thế nào, mới chiếm giữ được cái địa vị ở dưới bóng mặt trời này.

Người trong nước có thông hiểu những sự tích nước mình mới có lòng yêu nước yêu nhà, mới biết cố gắng học hành, hết sức làm lụng, để vun đắp thêm vào cái nền xã hội của tiên tổ đã xây dựng nên mà để lại cho mình. Bởi những lẽ ấy cho nên phàm dân tộc nào đã có đủ cơ quan và thể lệ làm cho một nước độc lập, thì cũng có sử cả. Nước Việt ta khởi đầu có sử từ đời nhà Trần, vào quãng thế kỷ thứ XIII. Từ đó trở đi nhà nào lên làm vua cũng trọng sự làm sử. Nhưng cái lối làm sử của ta theo lối biên niên của Tàu, nghĩa là năm nào tháng nào có chuyện gì quan trọng thì nhà làm sử chép vào sách. Mà chép một cách rất vắn tắt cốt để ghi lấy chuyện ấy mà thôi, chứ không giải thích cái gốc ngọn và sự liên can việc ấy với việc khác là thế nào.

Nhà làm sử lại là người làm quan, vua sai coi việc chép sử, cho nên dẫu thế nào sự chép sử cũng không được tự do, thường có ý thiên vị về nhà vua, thành ra trong sử chỉ cần chép những chuyện quan hệ đến nhà vua, hơn là những chuyện quan hệ đến sự tiến hóa của nhân dân trong nước. Vả, xưa nay ta vẫn chịu quyền chuyên chế, vẫn cho việc nhà vua là việc nước. Cả nước chỉ cốt ở một họ làm vua, cho nên nhà làm sử cứ theo cái chủ nghĩa ấy mà chép sử, thành ra sử đời nào cũng chỉ nói chuyện những vua đời ấy mà thôi. Bởi vậy xem sử ta thật là tẻ, mà thường không có ích lợi cho sự học vấn là mấy.

Sử của mình đã không hay, mà người mình lại không mấy người biết sử. Là vì cái cách học tập của mình làm cho người mình không có thể biết được sử nước mình. Bất kỳ lớn nhỏ, hễ ai cắp quyển sách đi học thì chỉ học sử Tàu,chứ không học sử nước nhà. Rồi thơ phú văn chương gì cũng lấy điển tích ở sử Tàu, chứ chuyện nước mình thì nhất thiết không nói đến. Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự mình thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn: "Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!" Cái sự học vấn của mình như thế, cái cảm tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước mở mang ra làm sao được?

Nhưng dẫu thế nào mặc lòng, nước ta đã có sử ta thì cũng có thể bởi đó mà biết được những sự đã qua ở nước ta, và có thể bởi đó mà khảo cứu được nhiều việc quan hệ đến vận mệnh nước mình từ xưa đến nay xoay vần ra làm sao. Hiềm vì sử nước ta thì làm bằng chữ Nho cả, mà chữ Nho thì từ rày trở đi chắc rồi mỗi ngày một kém đi. Hiện nay số người đọc được chữ Nho còn nhiều, mà trong nước còn không có mấy người biết được chuyện nước nhà, huống chi mai sau này chữ Nho bỏ không học nữa, thì sự khảo cứu về những việc quan hệ đến lịch sử nước mình sẽ khó biết bao nhiêu!

Nay nhân sự học ở nước ta đã thay đổi, chữ quốc ngữ đã phổ thông cả trong nước, chi bằng ta lấy tiếng nước nhà mà kể chuyện nước nhà, ta soạn ra bộ Việt Nam Sử Lược, xếp đặt theo thứ tự, chia ra từng thời đại, đặt thành chương, thành mục rõ ràng, để ai ai cũng có thể xem được sử, ai ai cũng có thể hiểu được chuyện, khiến cho sự học sử của người mình được tiện lợi hơn trước.

Bộ Việt Nam Sử Lược này, soạn giả chia ra làm 5 thời đại:

Thời đại thứ nhất là Thượng Cổ thời đại, kể từ họ Hồng Bàng cho đến hết đời nhà Triệu. Trong thời đại ấy, từ chương thứ III, bàn về xã hội nước Tàu trước đời nhà Tần, phần nhiều là những chuyện hoang đường, huyền hoặc cả. Những nhà chép sử đời trước cũng theo tục truyền mà chép lại, chứ không có di tích gì mà khảo cứu cho đích xác. Tuy vậy, soạn giả cũng cứ theo sử cũ mà chép lại, rồi cũng phê bình một đôi câu để tỏ cho độc giả biết rằng những chuyện ấy không nên cho là xác thực.

Thời đại thứ nhì là Bắc Thuộc thời đại, kể từ khi vua Vũ Đế nhà Hán lấy đất Nam Việt của nhà Triệu, cho đến đời Ngũ Quí, ở bên ta có họ Khúc và họ Ngô xướng lên sự độc lập. Những công việc trong thời đại ấy, thì sử cũ của nước ta chép rất là sơ lược lắm. Vì rằng trong thời đại Bắc Thuộc, người mình chưa được tiến hóa, sự học hành còn kém, sách vở không có, cho nên về sau những nhà làm sử của ta chép đến thời đại này cũng không kê cứu vào đâu được, chỉ theo sử Tàu mà chép lại thôi. Vả, người Tàu lúc ấy vẫn cho mình là một xứ biên địa dã man, thường không ai lưu tâm đến, cho nên những chuyện chép ở trong sử, cũng sơ lược lắm, mà đại để cũng chỉ chép những chuyện cai trị, chuyện giặc giã, chứ các công việc khác thì không nói đến.

Thời đại Bắc Thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bấy giờ ta không rõ lắm, nhưng có 1 điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã trở thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.

Thời đại thứ ba là thời đại Tự Chủ, kể từ nhà Ngô, nhà Đinh cho đến sơ-diệp nhà Hậu Lê. Nước mình từ thời đại ấy về sau là một nước dộc lập, tuy đối với nước Tàu vẫn phải xưng thần và chịu cống, nhưng kỳ thực là không ai xâm phạm đến cái quyền tự chủ của mình. Buổi đầu, nhà Đinh, nhà Lê mới dấy lên; còn phải xây đắp cái nền tự chủ cho vững bền, phải lo sửa sang việc võ bị để chống với kẻ thù nghịch, cho nên sự văn học không được mở mang lắm. Về sau đến đời nhà Lý, nhà Trần, công việc ở trong nước đã thành nền nếp, kẻ cừu địch ở ngoài cũng không quấy nhiễu nữa, lại có nhiều vua hiền tôi giỏi nối nhau mà lo việc nước, cho nên từ đó trở đi việc chính trị, việc tôn giáo và việc học vấn mỗi ngày một khai hóa ra, làm cho nước ta thành một nước có thế lực, bắc có thể chống được với Tàu, nam có thể mở rộng thêm bờ cõi. Nhà Lý và nhà Trần lại có công gây nên cái quốc hồn mạnh mẽ, khiến cho về sau đến đời Trần mạt, nhân khi họ Hồ quấy rối, người Tàu đã toan đường kiêm tính, người mình biết đồng tâm hiệp lực mà khôi phục lại giang sơn nhà. Kế đến nhà Lê, trong khoảng một trăm năm về buổi đầu, nước mình cũng có thể gọi là thịnh trị, nhất là về những năm Quang Thuận (1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497), thì sự văn trị và võ công đã là rực rỡ lắm. Nhưng về sau gặp những hôn quân dung chúa, việc triều chính đổ nát, kẻ gian thần dấy loạn. Mối binh đao gây nên từ đó, người trong nước đánh giết lẫn nhau, làm thành ra nam bắc chia rẽ, vua chúa tranh quyền. Ấy thật là một cuộc biến lớn ở trong nước vậy.

Thời đại thứ tư là Nam Bắc phân tranh, kể từ khi nhà Mạc làm sự thoán đoạt cho đến nhà Tây Sơn. Trước thì nam Lê, bắc Mạc, sau thì Nguyễn nam, Trịnh bắc, sự cạnh tranh càng ngày càng kịch liệt, lòng ghen ghét càng ngày càng dữ dội. Nghĩa vua tôi mỏng mảnh, đạo cương thường chểnh mảng: nước đã có vua lại có chúa. Trong Nam ngoài Bắc mỗi nơi một giang sơn, công việc ở đâu, chủ trương ở đấy. Tuy vậy việc sửa đổi ở ngoài Bắc cũng có nhiều việc hay, mà việc khai khẩn trong Nam thật là ích lợi. Nhưng cuộc thành bại ai đâu dám chắc, cơn gió bụi khởi đầu từ núi Tây Sơn, làm đổ nát cả ngôi vua cùng nghiệp chúa. Anh em nhà Tây Sơn vẫy vùng không được 20 năm, thì bản triều nhà Nguyễn lại trung hưng lên, mà đem giang sơn về một mối, lập thành cái cảnh tượng nước Việt Nam ta ngày nay vậy.

Thời đại thứ năm là Cận Kim thời đại, kể từ vua Thế Tổ bản triều cho đến cuộc Bảo Hộ bây giờ. Vua Thế Tổ khởi đầu giao thiệp với nước Pháp Lan Tây để mượn thế lực mà đánh Tây Sơn. Nhưng về sau vì những vua con cháu Ngài đổi chính sách khác, nghiêm cấm đạo Thiên Chúa và đóng cửa không cho ngoại quốc vào buôn bán. Những đình thần thì nhiều người trí lự hẹp hòi, cứ nghiễm nhiên tự phụ, không chịu theo thời mà thay đổi. Đối với những nước ngoại dương, thì thường hay gây nên sự bất hòa, làm cho nước Pháp phải dùng binh lực để bênh vực quyền lợi của mình. Vì những chính sách ấy cho nên mới thành ra có cuộc Bảo Hộ. (?)

Đại khái đó là những mục lớn trong những phần mà soạn giả đã theo từng thời đại để đặt ra. Soạn giả đã cố sức xem xét và góp nhặt những sự ghi chép ở các sách chữ Nho và chữ Pháp, hoặc nhữNg chuyện rải rác ở các dã sử, rồi đem trích bỏ những sự huyền hoặc đi mà soạn ra bộ sách này, cốt để người đồng bang ta biết được chuyện nước nhà mà không tin nhảm những sự huyễn hoặc. Thời đại nào nhân vật ấy và tư tưởng ấy, soạn giả cứ bình tĩnh cố theo cho đúng sự thực. Thỉnh thoảng có một đôi nơi soạn giả có đem ý kiến riêng của mình mà bàn với độc giả, thí dụ như chỗ bàn về danh hiệu nhà Tây Sơn thì thiết tưởng rằng sử là của chung cả quốc dân, chớ không phải riêng cho một nhà một họ nào, cho nên mới phải lấy công lý mà xét đoán mọi việc và không vị tình riêng để phạm đến lẽ công bằng vậy.

Độc giả cũng nên biết cho rằng bộ sử này là bộ Sử Lược chỉ cốt ghi chép những chuyện trọng yếu để hãy tạm giúp cho những người hiếu học có sẵn quyển sách mà xem cho tiện. Còn như việc làm thành ra bộ sử thật là đích đáng, kê cứu và phê bình rất tường tận, thì xin để dành cho những bậc tài danh sau này sẽ ra công mà giúp cho nước ta về việc học sử. Bây giờ ta chưa có áo lụa, ta hãy mặc tạm áo vải, tuy nó xấu xí nhưng nó có thể làm cho ta đỡ rét. Nghĩa là ta hãy làm thế nào cho những thiếu niên nước ta ngày nay ai cũng có thể biết một đôi chút sự tích nước nhà, cho khỏi tủi quốc hồn. Ấy là cái mục đích của soạn giả, chỉ có thế thôi. Nếu cái mục đích ấy mà có thể tới được thì tưởng bộ sách này là bộ sách có ích vậy.

Trần Trọng Kim

Thursday, July 14, 2011

Câu chuyện Đức Phật giúp hóa giải chiến tranh

Trong khi căng thẳng về Biển Đông ngày càng leo thang, đọc lại 1 câu chuyện về cách ngăn chặn nguy cơ chiến tranh giữa 2 nước từ thời Đức Phật sẽ giúp ta hiểu hơn về bản chất của chiến tranh và có thể rút ra giải pháp cho hiện tại.

Câu chuyện xảy ra vào mùa hạ năm 585 trước công nguyên tại xứ Vesali, Ấn Độ.


Hạ thứ 5 tại Mahavana, thuộc Vesali (năm -585)

Tinh xá Jetavana đã tạo được nề nếp tu học vững chãi với trên 500 vị khất sĩ. Thể theo lời hứa với các vị vương tử Licchavi, đức Phật rời Sravasti trở về Vesali để chuẩn bị mùa an cư thứ năm tại Mahavana (Ðại Lâm). Nơi đây đã được các vương tử Licchavi chỉnh trang thành tinh xá gồm có một tòa giảng đường rộng lớn hai tầng, nóc nhọn, gọi là giảng đường Kutagara (Trùng Các), và một số các tăng đường rải rác trong rừng. Hầu hết cây trong rừng này đều thuộc loại cây sala (Shorea robusta).

Phật về đến Vesali không bao lâu thì nghe xảy ra cuộc tranh chấp giữa hai xứ Sakya và Koliya về nước sông Rohini ở ranh giới hai xứ.

Tranh chấp giữa hai nước Sakya và Koliya

Trước mùa an cư bốn tháng, tức vào tháng Jetthamula, bỗng xảy ra sự xích mích giữa hai xứ Sakya và Koliya về dòng sông Rohini, ranh giới giữa hai xứ. Sakya là quê nội của Phật. Koliya là quê ngoại của Phật và cũng là quê hương của công chúa Yasodhara.

Số là năm ấy trời hạn hán, không có mưa, nên mực nước sông Rohini rất thấp, không đủ cho nông dân hai bên bờ sông dùng. Ðại diện nông dân bên xứ Koliya bảo:

- Nước sông Rohini năm nay ít quá, không đủ cho cả hai bên dùng. Nhưng lúa phía chúng tôi sắp chín rồi. Vậy quý vị hãy để cho chúng tôi dùng nước trước, đến khi lúa chín rồi sẽ tới phiên quý vị.

- Lúa bên phía chúng tôi cũng đang lúc cần nước. Ðợi đến khi lúa bên phía quý vị chín rồi thì lúa phía chúng tôi đã quá mất sức, lúc ấy nước sông cũng đã cạn. Chúng tôi sẽ phải đi qua đó xin ăn thôi. Hãy để chúng tôi dùng nước trước rồi quý vị hãy dùng sau.

Lời qua tiếng lại một hồi đi đến chỗ nặng lời:

- Chúng bây có đói thì kéo nhau về Kapilavastu mà xin ăn. Ðồ quân gì mà anh chị em lấy nhau như chó.

- Chúng bây nói ai là chó? Chúng bây là quân cùi hủi sống trong rừng như thú vật.

Từ thương thuyết đến tranh cãi nặng lời, rồi đến đắm đá. Cuối cùng binh đội hai nước dàn trận hai bên bờ sông. Tình thế trở nên gay cấn, sắp xảy ra chiến tranh.

Ðức Phật đang ngụ tại giảng đường Trùng-Các (Kutagara) ờ Ðại Lâm (Mahavana), hay tin, vội tức tốc đến nơi để dàn xếp cuộc tranh chấp. Hỏi các vị tướng chỉ huy quân đội hai bên thì họ nói rằng phía bên kia khinh người, xâm phạm ranh giới và tài sản bên này. Không ai nói đến lý do thật sự của cuộc tranh chấp. Mãi đến khi Phật nói chuyện với các nông dân chất phác mới biết nguyên nhân chính là do thiếu nước tưới vào ruộng rẫy hai bên bờ sông.

Nhờ có thân tình với cả hai bên, đức Phật sắp xếp cuộc gặp gỡ giữa các vương tử đại diện cho hai xứ Sakya và Koliya để thảo luận và tìm biện pháp hòa giải. Phật nói:

- Này quý vị vương tử, sở dĩ nước sông Rohini năm nay yếu kém là vì trời ít mưa. Vài tháng nữa, đến mùa mưa, mực nước sông sẽ trở lại như cũ thì cả dân chúng hai bên bờ sông đều có đủ nước dùng. Nếu để xảy ra chiến tranh thì chẳng những binh lính hai bên phải chết hoặc bị tàn phế thảm thương mà dân chúng và ruộng vườn của cả hai bên cũng sẽ bị thiệt hại không thể lường trước được. Này quý vị, quý vị thử nghĩ xem mạng sống của quý vị, của binh lính, của dân chúng là quan trọng hay nước sông Rohini và ruộng vườn là quan trọng?

- Bạch Thế Tôn, mạng sống của con người tất nhiên đáng quý trọng hơn.

- Ðúng thế! Vậy Như Lai khuyên quý vị nên tìm biện pháp hòa giải để tạm thời chia nước sông Rohini ra đồng đều cho dân chúng hai bên bờ sông đều có nước dùng tạm. Chiến tranh thường chỉ gây chết chóc, hận thù, chứ không bao giờ mang đến một giải pháp tốt đẹp, kể cả đối với người thắng trận.

Này quý vị, chúng ta sẽ được hạnh phúc bằng cách gạt bỏ hận thù khi sống giữa đám người thù hận (Pháp Cú, bài 197); chúng ta sẽ được hạnh phúc nếu biết sống lành mạnh giữa đám người bệnh tật (Pháp Cú, bài 198); chúng ta sẽ được hạnh phúc nếu biết sống thanh tịnh giữa đám người đầy tham vọng (Pháp Cú, bài 199). Thắng lợi sinh thù oán, thất bại chịu khổ đau, người không tranh thắng bại, sống an lành hạnh phúc (Pháp Cú, bài 201).

Nghe xong, 250 vương tử xứ Sakya và 250 vương tử xứ Koliya xin xuất gia theo Phật. Do sự can thiệp của Phật mà hai bên đã đi tới một sự thỏa thuận về vấn đề phân chia nước tưới cho dân chúng hai bên bờ sông Rohini trong khi chờ đợi mùa mưa tới. Các vị vương tử rút binh về triều, thuật lại lời Phật giảng hòa cho vua Suddhodana, vua Suppabuddha, triều thần và vợ con của họ nghe. Hai xứ Sakya và Koliya tái lập bang giao thân tình như cũ.

(Nguồn: http://www.quangduc.com/DucPhat/82sutichducphat05.html)