Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)

Wednesday, October 27, 2010

Cách tiếp cận QLTT để cải tiến năng suất lao động của DNVN

KM Approach for Improving the Labor Productivity
of Vietnamese Enterprise
(Quoc Trung Pham and Yoshinori Hara)

In knowledge society, knowledge management (KM) is more and more considered the best strategy for improving the labor productivity of an enterprise. However, the effectiveness of KM on labor productivity is not known exactly, especially since it depends on the development level of a country.
To find a solution based on KM approach for improving the labor productivity of Vietnamese enterprise, a new model is proposed, which includes knowledge capability, technology capability, KM, employee satisfaction and labor productivity. By analyzing data from Vietnamese enterprises, the model is tested and suggestions for improving the labor productivity of Vietnamese enterprises are made.
Some results of data analysis are: KM doesn’t have a direct effectiveness on labor productivity, but employee satisfaction positively affects the labor productivity of Vietnamese enterprises; Technology capability is the most important capability influencing KM, employee satisfaction and labor productivity; KM has a strong effect on employee satisfaction.
Further, some suggestions for improving the labor productivity of Vietnamese enterprises are: organizing frequent meetings for shortening cultural gap between managers and employees, replacing old machines combined with improving employees’ self learning skill, improving innovation capability by creating an open culture for encouraging employees to voice their opinions.


Friday, October 8, 2010

Nhu cầu quản lý tri thức trong DNVVN


Nhu cầu quản lý tri thức trong DNVVN

Phạm Quốc Trung, NCS. ngành Kinh Tế, ĐH. Kyoto, Nhật Bản


Khi đề cập đến doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), mọi người thường nghĩ đến những khó khăn mà họ gặp phải, như: thiếu vốn, thiếu nhân lực, công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém, bị đối xử bất bình đẳng… Tuy nhiên, trong thời đại tri thức và toàn cầu hóa ngày nay, DNVVN cũng có những thế mạnh riêng và cũng cần phải áp dụng mô hình quản lý hiện đại như quản lý tri thức (QLTT) để có thể tồn tại và cạnh tranh hiệu quả với các doanh nghiệp lớn hơn. Bài viết này nhằm chỉ ra nhu cầu áp dụng QLTT trong các DNVVN là rất cần thiết ở Việt Nam và cả ở phạm vi thế giới.

1. Tầm quan trọng của tri thức trong thời đại ngày nay

Trong thế kỷ 21, tri thức ngày càng trở nên quan trọng cho việc phát triển bền vững của một doanh nghiệp cũng như của một quốc gia. Trong các tổ chức hiện đại, tri thức được xem là một trong những yếu tố thành công chủ yếu và quản lý tri thức trở thành một chiến lược cạnh tranh hiệu quả nhất.

Ngày nay, cả thế giới đang bước vào kỷ nguyên thông tin và tri thức, ở đó, tổ chức hay quốc gia nào quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên tri thức của mình sẽ có được những lợi thế cạnh tranh nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của tổ chức hay quốc gia của mình.

Ngoài ra, theo Stiglitz, một nhà kinh tế lớn của World Bank, tri thức đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế và đảm bảo phúc lợi xã hội. Ông ta còn đề nghị cần phải xem xét các vấn đề phát triển dưới góc nhìn tri thức, ở đó, giáo dục đóng một vai trò dẫn dắt cho sự phát triển. Trong nền kinh tế tri thức đó, sáng tạo là cực kỳ quan trọng, vì vậy các doanh nghiệp nhỏ có thể cung cấp những nền tảng cho sự đổi mới của xã hội tốt hơn nhiều so với các doanh nghiệp to lớn cồng kềnh.

2. Vai trò ngày càng quan trọng của DNVVN

Ngày nay, DNVVN (doanh nghiệp có dưới 300 nhân viên) chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng số các doanh nghiệp trên thế giới (#95% tổng số doanh nghiệp). Ở Việt Nam, số lượng DNVVN là 98% và đóng góp hơn 50% vào tổng GDP. Vì vậy, DNVVN ngày càng quan trọng và trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia và cả thế giới. Trong đợt khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua, mọi người đều nhận thấy vai trò quan trọng của DNVVN trong việc tạo ra việc làm, duy trì tính năng động của thị trường lao động, hay thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương và các quốc gia.

Hơn nữa, với sự phát triển nhanh chóng của CNTT-VT (công nghệ thông tin – viễn thông), thương mại điện tử và trào lưu toàn cầu hóa, DNVVN càng đóng một vai trò quan trọng trong việc gắn kết chuỗi cung ứng toàn cầu. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ còn hỗ trợ các DNVVN trở thành yếu tố chính cho sự đổi mới kinh tế. Khác với các doanh nghiệp lớn, DNVVN dễ dàng thay đổi và thích nghi nhanh chóng hơn với những nhu cầu của thị trường và áp lực của nền kinh tế. Trên thực tế, có một số DNVVN đã có thể cạnh tranh một cách hiệu quả với các doanh nghiệp lớn trong thế giới số ngày nay dựa trên chính tri thức và năng lực đổi mới của mình.

3. Quản lý tri thức trong DNVVN – một nhu cầu bắt buộc

Trong xã hội tri thức, trước sau gì, các DNVVN cũng phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác dựa trên tri thức của mình và khả năng biến các tri thức đó thành giá trị thông qua sản phẩm hay dịch vụ. Trong kỷ nguyên tri thức và nền kinh tế toàn cầu hóa, DNVVN sẽ phải tự thích nghi với điều kiện mới để có thể tồn tại và phát triển. Bởi vì làn sóng của kỷ nguyên tri thức đang đến và sẽ ảnh hưởng đồng đều đến mọi tổ chức và mọi quốc gia, DNVVN cũng không tránh khỏi ảnh hưởng đó. Chính vì vậy, QLTT sẽ trở nên quan trọng đối với DNVVN cũng như đối với doanh nghiệp lớn. Điều này đòi hỏi DNVVN phải chủ động áp dụng QLTT để có thể đối phó hiệu quả với những thay đổi đó.

Mặt khác, toàn cầu hóa cũng khiến cho thế giới trở nên phẳng hơn và xu thế cạnh tranh dựa trên tri thức sẽ nhanh chóng lan rộng trên toàn thế giới. Ở Nhật Bản, một nước công nghiệp phát triển, DNVVN cũng được xem là nguồn lực của đổi mới và đảm bảo sự phát triển bền vững. Chính phủ Nhật cũng ban hành nhiều chính sách nhằm hỗ trợ cho việc đổi mới công nghệ, sản phẩm và dịch vụ ở các DNVVN, từ đó giúp các doanh nghiệp này có thể cạnh tranh một cách hiệu quả trong nền kinh tế tri thức. Vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển, các DNVVN ở một nước đang phát triển như Việt Nam buộc phải áp dụng QLTT mới có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp của các nước phát triển dựa trên sức mạnh tri thức và khả năng đổi mới của mình.

Tuy nhiên, so với các doanh nghiệp lớn, hầu hết các DNVVN đều không có đủ nguồn lực cho việc đầu tư vào nghiên cứu-phát triển, áp dụng công nghệ mới, hay triển khai hệ QLTT. Do đó, đòi hỏi một nổ lực rất lớn từ phía các DNVVN cũng như sự hỗ trợ từ chính phủ để biến các DNVVN thành những doanh nghiệp hướng tri thức. Điều quan trọng trước mắt là các DNVVN cần phải biết rõ hiện trạng của mình, cải thiện mức độ trưởng thành về CNTT-VT, và áp dụng một cách tiếp cận QLTT phù hợp. Có như vậy, DNVVN mới có thể cải thiện năng lực cạnh tranh và khả năng đổi mới của mình. Từ đó, sử dụng hiệu quả nguồn lực tri thức và con người của mình, đảm bảo khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững trong một xã hội tri thức.

4. Thực trạng quản lý tri thức trong DNVVN của Việt Nam

Cùng với sự đổi mới và phát triển kinh tế của đất nước, DNVVN ở Việt Nam cũng có sự phát triển nhanh chóng, đặc biệt là từ sau khi có luật Doanh Nghiệp vào năm 2000. Tuy nhiên, theo những nghiên cứu gần đây, mặc dù có sự phát triển ấn tượng, nhưng DNVVN vẫn còn rất yếu về nhiều mặt, như: thiếu sự gắn kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, năng lực cạnh tranh yếu, ít đổi mới, nhân sự không ổn định, và chưa sẳn sàng cho việc hội nhập.

Theo Vũ Hồng Dân, Trung Tâm Năng Suất Chất Lượng Việt Nam, DNVVN của Việt Nam dần nhận được sự quan tâm và hỗ trợ từ chính phủ nhưng chưa nhiều, như là: có văn phòng hỗ trợ DNVVN, một số chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN… Với sự hỗ trợ đó, việc ứng dụng QLTT trong DNVVN sẽ dần được thúc đẩy và triển khai nhiều hơn. Tuy nhiên hiệu quả đạt được còn thấp, đến nay, việc áp dụng QLTT trong DNVVN ở nước ta còn rất ít và số trường hợp triển khai thành công hệ QLTT trong thực tế chưa thấy được ghi nhận.

Dựa trên một nghiên cứu trước đây của chúng tôi (2009), mức độ ứng dụng QLTT trong các DN Việt Nam nói chung là ở mức trung bình (3.5/ 5). Mức độ này cho thấy môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã sẳn sàng cho các giải pháp QLTT. Ngoài ra, với đà phát triển nhanh chóng của ứng dụng CNTT-VT trong các doanh nghiệp, như: SCM, CRM, ERP, mạng xã hội…, thì việc triển khai hệ QLTT vào thời điểm hiện nay là thích hợp. Càng sớm triển khai các giải pháp QLTT thì các DNVVN sẽ càng sớm tạo được lợi thế cạnh tranh và đảm bảo được sự phát triển bền vững của mình. Tuy nhiên, việc triển khai thành công một hệ QLTT là một bài toán khó cho các DNVVN về nhiều mặt, như: sự nhận thức, nguồn lực, công nghệ, quá trình triển khai... Phải có một quyết tâm và chiến lược đúng đắn từ phía doanh nghiệp, cũng như sự khuyến khích, hỗ trợ từ phía chính phủ thì mới có thể vượt qua những khó khăn và áp dụng thành công QLTT.

Tóm lại, tri thức là một tài sản vô giá mà mỗi doanh nghiệp, mỗi đất nước phải biết cách quản lý để có thể cạnh tranh hiệu quả và phát triển bền vững trong một xã hội tri thức. Với xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển của CNTT-VT, việc áp dụng QLTT trong các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN, trở thành một nhu cầu bắt buộc. Chính các DNVVN phải nhận lấy trách nhiệm tiên phong trong việc ứng dụng QLTT để có thể chuyển mình theo chiều hướng tri thức, tăng cường được năng lực cạnh tranh dựa trên tri thức, phát huy nguồn lực con người, và tận dụng được sức mạnh của CNTT-VT. Áp dụng thành công QLTT trong DNVVN chính là chìa khóa để mở cánh cửa của nền kinh tế tri thức.

Thursday, September 30, 2010

4 NGÀN NĂM VĂN HIẾN


"Lịch sử Việt Nam 4000 năm văn hiến" là câu chúng ta thường rất hay nghe. Nhưng nhiều người không biết tại sao gọi là văn hiến mà không phải là văn hóa. Bởi vì, văn hóa được chia cụ thể hơn thành 2 phần là văn hóa tinh thần hay còn gọi là văn hiến và văn hóa vật chất hay còn gọi là văn vật. Do đó, người ta thường nói "Hà Nội ngàn năm văn vật". Tiếc thay, cái văn hóa vật chất ít ỏi đó đã bị mai một dần đi, không chỉ do chiến tranh trong suốt 1000 năm đó, mà còn do chính bàn tay của thế hệ sau phá hủy bởi vì thiếu hiểu biết.

Trước đây cả ngàn năm, một trong những mục tiêu lớn nhất của người Trung Quốc khi muốn thôn tính Việt Nam, đó là tiêu diệt văn hóa. Và họ đã thành công phần nào đối với văn hóa vật chất, nhưng vẫn chưa thể xâm phạm được đến văn hóa tinh thần. Bởi vẫn còn đó lũy tre làng, mái đình, cây đa, làn quan họ... Ông cha ta còn cố gắng để làm rõ thêm văn hóa Việt, bằng những sự khác biệt ở chữ viết, cách mặc áo, để tóc, nhuộm răng... Đó là lý do mà dân tộc Việt Nam vẫn tồn tại và phục quốc sau 1000 năm bị đô hộ. Nhờ đó mà việc xây dựng đất nước và khôi phục văn hóa vật chất đã được các triều đại Lý, Trần khôi phục một cách nhanh chóng.

Thế mà, ngày nay, thành trì kiên cố của nền văn hiến 4000 năm sắp bị lung lay, bởi những thế hệ con cháu ngu dốt và yếu hèn. Một vài dẫn chứng, như việc làm các bộ phim mừng đại lễ "sặc mùi Tàu", các đài truyền hình thi nhau chiếu phim Tàu, các viện Khổng Tử được mọc lên tại các đại học, học sinh không hiểu biết và hứng thú đối với lịch sử đất nước, báo chí VN đăng lại các bài cổ vũ sự bành trướng của TQ, cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ văn hóa lại tiếp tay cho việc quảng bá văn hóa Tàu...

Càng nhìn vào thực trạng đất nước hiện nay, lại càng buồn! Nếu con cháu ngày nay, không biết thức tỉnh, cùng nhau bảo vệ nền văn hóa tinh thần của dân tộc, thì việc mất nước chỉ là một sớm một chiều mà thôi. Đó là lý do tại sao tôi không thể vui trước thềm kỷ niệm sự kiện ngàn năm một thuở này.

4 NGÀN NĂM VĂN HIẾN

Tổ quốc Việt Nam bốn ngàn năm
Sáng soi lịch sử những thăng trầm
Thái bình – ước vọng ông cha đó
Còn mãi lòng ta, ánh trăng rằm…

Văn hiến từ xưa đã dựng xây
Văn Lang, Âu Lạc - máu xương dầy
Một giọt máu hồng nòi Bách Việt
Chảy từ quá khứ đến ngày nay…

Trãi bao tàn phá bởi ngoại xâm
Văn hóa Việt Nam vẫn âm thầm
Sáng soi đốm lửa trong đêm tối
Để một ngày mai lại nảy mầm...

Còn nhớ truyện xưa thuyết Tiên Rồng
Trăm nòi Bách Việt, giống Lạc Hồng
Văn minh lúa nước, cùng vui sống,
Trống đồng, cung nỏ - vững non sông.

Ngày nay, chinh chiến đã sạch rồi
Hãy cùng dựng lại núi sông thôi
Con cháu gắng lòng, quê hương đó,
Văn hiến Việt Nam mãi sáng ngời…

(Quốc Trung)

Sunday, September 26, 2010

KM strategy based on Web 2.0

This is the presentation for my 2nd paper in Knowledge Management. The title is "Combination 2 KM strategies by Web 2.0". It talks about the important role of Web 2.0 in creating a more effective KM strategy.
Web 2.0 can be used for combining 2 main KM strategies (Personalization and Codification) and integrating various enabling technologies for KMS. This paper is published on the Proceeding of 3rd International Conference of Knowledge Science, Engineering and Management 2009 (Vienna, Austria).

Wednesday, September 15, 2010

ĐẤT NƯỚC NGÀN NĂM


ĐẤT NƯỚC NGÀN NĂM

Đất nước Việt Nam, đất nước tôi
Mỗi lần nghĩ đến lại bồi hồi
Bao nhiêu lịch sử oai hùng đó
Giờ chỉ còn trong sách vở thôi

Đất nước còn đây – quê ta đây
Chiến chinh đã hết biết bao ngày
Mà sao dân tộc còn đau khổ
Chia rẽ, nghèo nàn – do ai gây ?

Vong thân, vọng ngoại mất tự do
Một thời oanh liệt – hóa thành tro
Bao nhiêu lý tưởng, giờ đâu mất
Con đường phía trước, thấy mà lo ?

Đất nước này đâu của mình ai
Của chung dân tộc - “lắm người tài”
Cùng chung nỗi khổ, cùng ao ước
Sao chẳng cùng nhau - đắp, dựng, xây ?

Lắng nghe tiếng gọi của non sông,
Nghe dòng máu chảy, máu Tiên Rồng.
Quên đi danh lợi, quên thù hận
Sáng mãi ngàn năm – nước Lạc Hồng.

PQT

Friday, August 27, 2010

TÂM SỰ NÀNG MỴ CHÂU


Đọc truyện Mỵ Châu - Trọng Thủy, ai cũng kết tội nàng Mỵ Châu, bởi đó là người có tội rất lớn để mất nước vào tay giặc Tàu.
Nghĩ cũng phải, nếu không có Mỵ Châu trao nỏ thần, một bí mật quân sự quan trọng của đất nước, vào tay Trọng Thủy thì cơ sự đâu đến nỗi. Nếu khi chiến tranh xảy ra, Mỵ Châu biết thức tỉnh và không rắc lông ngỗng chỉ đường, thì hai cha con đâu phải cùng đường và cơ đồ nước Việt đâu có tiêu tan nhanh như vậy. Đến khi bị thần Kim Quy phán là có tội, thì Mỵ Châu cũng bị cha xử chết mà không có được một lời phân giải nào cả. Nghĩ cũng tội nghiệp! Bài thơ dưới đây, đặt mình vào tâm trạng của nàng Mỵ Châu, để nói lên những tâm sự thay cho nàng.
Có lẽ tội lớn nhất phải kể đến vua cha, đã xem thường quân giặc, đã tin vào những lời lẽ tốt đẹp của kẻ thù mà không thấy được tâm địa cay độc của bọn chúng. Nàng Mỵ Châu là con, ở thời đó, thì chỉ được nghe lời cha, nên đã vô tình trở thành thủ phạm bán nước.
Giá như, nàng Mỵ Châu biết nghĩ đến họa mất nước, không nghe lời cha kết hôn cùng Trọng Thủy, hoặc giá như, khi đã kết hôn, biết cảnh giác bảo vệ bí mật quốc gia, hoặc giá như, khi chiến tranh xảy ra, biết thức tỉnh nhận ra kẻ thù, thì 1000 năm Bắc thuộc có thể đã không xảy ra. Nhưng lịch sử thì không có chữ "Nếu".
Hy vọng "Tâm sự nàng Mỵ Châu" sẽ là lời nhắn nhủ đến những người đang nắm vận mệnh quốc gia, cần tỉnh táo, để không biến mình trở thành những nàng Mỵ Châu của thế kỷ 21. Mong rằng, nhờ bài học này, đất nước sẽ tránh được những hiểm họa xâm lăng mới từ kẻ thù phương Bắc.

TÂM SỰ NÀNG MỴ CHÂU

“Phải chi anh là người Việt
Cùng em kháng cự giặc Tàu
Phải chi anh là người Việt
Cho đời em bớt khổ đau…

Tình em trao anh trọn vẹn
Chẳng hề suy tính thiệt sâu
Sao anh nỡ đành lỗi hẹn
Can qua – gây chuyện khổ sầu ?”

Tình yêu là không biên giới
Yêu nhau chẳng kể bắc nam
Quê hương - em quên nghĩ tới
Đành ôm mối hận ngàn năm !

Tình em sáng trong như ngọc
Nghe cha, em thiệt yêu anh
Khiến em trở thành kẻ ngốc
Nước tan – em sống sao đành

Mai sau, ai ơi nhớ mãi
Mối tình Trọng Thủy – Mỵ Châu
Quê hương, nếu em chẳng đoái
Tình yêu - đâu khỏi bể dâu…

PQT

Thursday, August 19, 2010

Rằm Tháng Bảy - Lễ hội Vu Lan


Sắp tới rằm tháng bảy, lễ hội Vu Lan theo truyền thống của Phật giáo, chợt nhớ về tục lệ cúng cô hồn của Việt Nam. Lễ hội Vu Lan có nhiều sự kiện và ý nghĩa to lớn trong Phật giáo, như là: kết thúc mùa an cư kiết hạ, cúng thí thực cho các cô hồn, truyền thống báo hiếu... Nhắc đến ngày này, mọi người thường nhớ đến tục lệ bông hồng cài áo, báo hiếu cha mẹ. Câu chuyện gắn với ngày lễ này là việc ngài Mục Kiền Liên xuống địa ngục cứu mẹ đang chịu tội. Dù được xem là đệ tử thần thông đệ nhất của Phật, nhưng cũng không cứu được mẹ. Phải nhờ Phật chỉ cách cúng chư tăng, và nhờ sức mạnh của tập thể tăng chúng, lập đàn cầu siêu mới cứu được mẹ ngài. Từ đó về sau, truyền thống cúng cô hồn vào dịp rằm tháng bảy mới bắt đầu xuất hiện và được duy trì đến ngày nay. Nhớ lại hồi còn nhỏ, ấn tượng của tôi về ngày Vu Lan là lúc lũ trẻ trong xóm xúm nhau trước một mâm cúng cô hồn của một nhà nào đó, để chờ dành được những món đồ cúng sẽ được ném ra đường sau khi cúng xong. Chỉ là những thứ bánh kẹo bình thường, nhưng đối với lũ trẻ, đó là những chiến lợi phẩm, và là một sự kiện thú vị đối với chúng. Vài dòng dông dài để nhắc nhở mọi người rằm tháng bảy sắp về, để cùng nhau nhớ về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và cố gắng sống tốt để đền đáp công ơn to lớn đó.

RẰM THÁNG BẢY - VU LAN

Thoáng chốc Vu Lan lại đã về
Mưa buồn quạnh quẽ bước đường quê
Thắp hương cúng khấn siêu thân quyến
Đốt giấy bạc vàng độ kẻ mê
Lễ Phật mong đền ơn cha mẹ
Nghe kinh khó đáp nghĩa muôn bề
Mong nhờ ân đức – tai ương khỏi
Thoát nợ trần gian – vẹn câu thề.

Friday, August 13, 2010

Tiếng chuông gửi người


For whom the bell tolls
(John Donne)

No man is an island
Entire of itself.
Each is a piece of the continent,
A part of the main.
If a clod be washed away by the sea,
Europe is the less…
Each man’s death diminishes me,
For I am involved in mankind.
Therefore, send not to know
For whom the bell tolls,
It tolls for thee.

------

Tiếng chuông gửi người
(Quốc Trung phỏng dịch)

Không ai - ốc đảo tự thân
Mỗi người ấy chính một phần thế gian
Ta là một giữa muôn vàn
Một phần của quả đất ngàn mến thương
Chẳng may, đất lở đại dương
Địa cầu bị khuyết, bị thương một phần
Chẳng may, ai đó vãn phần
Lòng ta cũng nhói, bần thần, xót xa
Bởi người xa lạ với ta
Cùng chung máu đỏ một nhà thế gian
Thế nên, mượn tiếng chuông vang
Đánh lên một tiếng tỏa lan xa gần
Cho người dẫu lạ hay thân
Cùng nghe được tiêng chuông ngân đồng đều…

Friday, August 6, 2010

Vietnam competitiveness in 2009



Compared with last year (2008), Vietnam competitiveness has been improved in most factors. The overall mark of Vietnam in 2009 increases to 38.2 (rank 42) from 34.5 (rank 48) of 2008. However, 2 lowest factors fall into Education (rank 48) and Science&Technology (rank 49). This trend shows an unsustainable development of Vietnam. So that, the most important problem for Vietnam at this time is how to improve the quality of education and scientific research.

(Data source: Japan Center for Economic Research - http://www.jcer.or.jp/eng/pdf/potential2009appendix.pdf)

Saturday, July 24, 2010

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ (5)

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ

Hội 8

Chưng ấy :
Chỉn xá tua rèn;
Chớ nên tuyệt học.
Lay ý thức, chớ chấp trằng trằng;
Nén niềm vọng, mựa còn xóc xóc.
Công danh mảng đắm, ấy toàn là những đứa ngây thơ;
Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc.
Dựng cầu đò, giồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu;
Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc.
Rèn lòng làm Bụt, chỉn xá tua một sức dồi mài;
Đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc.
Xem kinh đọc lục, làm cho bằng thửa thấy thửa hay;
Trọng Bụt tu thân, dùng mựa lỗi một tơ một tóc.
Cùng nơi ngôn cú, chỉn chăng hề một phút ngại lo;
Rất thửa cơ quan, mựa còn để tám hơi lọt lọc.

Hội 9

Vậy cho hay :
Cơ quan Tổ giáo;
Tuy khác nhiều đàng,
Chẳng cách mấy gang.
Chỉn xá nói từ sau Mã Tổ;
Ắt đã quên thuở trước Tiêu Hoàng.
Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi;
Khuếch nhiên bất thức, tai ngu mảng ắt còn vang.
Sanh Thiên Trúc, chết Thiếu Lâm, chôn dối chân non Hùng Nhĩ;
Thân bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang.
Vương lão chém mèo, lạt trẩy lòng ngừa thủ tọa;
Thầy Hồ khua chó, trỏ xem trí nhẹ con giàng.
Chợ Lư Lăng gạo mắc quá ư, chẳng cho mà cả;
Sở Thạch Đầu đá trơn hết tấc, khôn đến thưa đang.
Phá Táo cất cờ, đạp xuống dấu thiêng thần miếu;
Câu Chi day ngón, dùng đòi nếp cũ ông ang.
Lưỡi gươm Lâm Tế, nạng Bí Ma, trước nạp tăng no dầu tự tại;
Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt hượm xá nghênh ngang.
Đưa phiến tử, cất trúc bề, nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn;
Xô hòn cầu, cầm mộc thược, bạn thiền hòa chước móc khoe khoang.
Thuyền tử rà chèo, dòng xanh chửa cho tịn tẩy;
Đạo ngô múa hốt, càn ma dường thấy quái quàng.
Rồng Yển lão nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ ;
Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt giang.
Cây bách là lòng, thác ra trước phải phương Thái Bạch;
Bính Đinh thuộc hỏa, lại trở sau lỗi hướng Thiên Cang.
Trà Triệu lão, bánh Thiều Dương, bầy thiền tử hãy còn đói khát;
Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu Thất, chúng nạp tăng những để lưu hoang.
Gieo bó củi, nẩy bông đèn, nhân mang mới nát;
Lộc đào hoa, nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang.

Hội 10

Tượng chúng ấy,
Cốc một chân không;
Dùng đòi căn khí.
Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông;
Há cơ Tổ nay còn thửa bí.
Chúng tiểu thừa cốc hay chửa đến, Bụt xá ngăn bảo sở hóa thành;
Đấng thượng sĩ chứng thực mà nên, ai ghẽ có sơn lâm thành thị.
Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao;
Chiền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí.
Ngựa cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang;
Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quý.
Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thực ấy phàm phu;
Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí.
Mày ngang mũi dọc, tướng tuy lạ xem ắt bẵng nhau;
Mặt thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vàn vàn thiên lý.

Kệ rằng :

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

------

VUI ĐẠO CÕI TRẦN

Hồi thứ 8

Vậy nên hãy khá tu rèn,
Chớ nên sao lãng, bỏ đèn huệ tâm,
Chuyển ý thức, chớ chấp lầm,
Vọng tâm xả bỏ, dứt mầm lao xao.

Đường công danh, biết bao người mãi,
Tuệ phúc tu, mới phải người hay,
Dựng cầu, xây tháp, siêng thay,
Từ bi, hỷ xả, ngày ngày tụng kinh.

Chuyên sức tu, rèn mình làm Bụt,
Tốn nhiều phen lựa lọc đãi vàng,
Theo kinh, tu chứng rõ ràng,
Tu theo gương Bụt, lỗi càng sạch trơn.

Không lo ngại, khởi tình thương,
Nói làm như nhất – tâm thường an vui,
Việc làm chuyên nhất không lùi,
Tu thân, tu ý, chẳng lui bao giờ.

Hồi thứ 9

Cho hay lời dạy khác nhau,
Tổ sư một ý, khác nào mấy gang.

Nhớ sự tích Tiêu Hoàng ngày trước,
Lời tổ sư, công đức đều không ,
Từ sau Mã Tổ rất đông,
“Nhân tâm trực chỉ…”, vẫn trong ý này.

Sanh Thiên Trúc, chết Thiếu Lâm, giả chôn chân núi Hùng Nhĩ [1];
“Thân bồ đề, lòng minh kính” [2], viết lên mặt vách hành lang.
Vương lão chém mèo [3], để thử lòng ngừa thủ tọa;
Thầy Hồ khua chó, chỉ xem trí nhẹ cháu con.
Chợ Lư Lăng gạo mắc quá ư, chẳng cho mặc cả;
Chốn Thạch Đầu đá trơn quá sức, khó đến hỏi han.
Phá bếp dẹp cờ, đạp xuống dấu thiêng thần miếu;
Câu Chi giơ ngón, dùng theo nếp cũ ông cha.
Lưỡi gươm Lâm Tế, nạng Bí Ma, trước tăng sĩ tùy nghi tự tại;
Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn phật tử chớ nghênh ngang.
Đưa cây quạt, ném thiền trượng, nghiệm kẻ học lòng nhẹ nhẵn;
Xô quả cầu, cầm gáo gỗ, bạn thiền cùng khoe mưu chước.
Thuyền Tử đánh chèo, dòng xanh vẫn chưa rửa sạch;
Đạo ngô múa hốt, càn ma dường thấy quái lạ.
Rồng lão Yển nuốt trời đất, ta xem chỉ sợ;
Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt đồn đại.
Cây bách phía trước, nghĩa đằng tây lại hiểu đằng đông;
Bính Đinh thuộc hỏa, Phật phương nam lại tìm phương bắc.
Trà Triệu lão, bánh Thiều Dương, bầy thiền tử còn đói khát;
Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu Thất, chúng tăng vẫn để lưu hoang.

Gieo củi, nẩy đèn, tham mới ngộ,
Nhìn đào, nghe trúc, tỏ đúng thời,
Mới hay mê ngộ trong đời,
“Kiến tánh thành Phật”, ấy lời tổ sư.

Hồi thứ 10

Những việc ấy chỉ cùng chân lý
Đại chúng mê, căn trí không đồng
Do lòng vướng chấp khôn thông,
Chứ đâu phải tổ hẹp lòng giấu ta.

Chúng tiểu thừa trí căn còn cạn,
Bụt khuyến tu, chỉ dẫn hóa thành.
Thượng căn, trí sáng tâm nhanh,
Đâu cần phân biệt thị thành, sơn lâm.

Núi hoang vắng, là nơi tu đạo;
Chùa tịnh thanh, chỗ đạo nhân tìm.
Diêm vương nào kể áo xiêm,
Lầu son đâu thoát, nổi chìm tử vong.

Hình tướng khác, thực ra chẳng khác
Lòng phàm phu, mới khác thánh hiền
Phàm phu – nhân ngã, bạc tiền,
Thánh nhân – tu đạo, vui miền trí chơn.

Kệ rằng :

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Nếu đói thì ăn, mệt ngủ liền.
Trong nhà đầy báu, thôi tìm kiếm,
Trước cảnh vô tâm, khỏi hỏi thiền.

------

[1] Nói về sự tích Tổ Bồ Đề Đạt Ma, người đưa Thiền tông từ Ấn Độ vào Trung Hoa, đồng thời cũng là tổ sư của võ phái Thiếu Lâm. Theo truyền thuyết, sau khi ngài mất, đem chôn ở chân núi Hùng Nhĩ. Sau đó, có người thương buôn về bảo đã gặp ngài giữa đường, trên tay quãy 1 chiếc dép. Mọi người thấy lạ, cho lệnh đào mộ ngài lên, thì chỉ thấy trong quan tài có 1 chiếc dép mà thôi.
[2] Nói về sự tích Lục tổ Huệ Năng. Khi Ngũ tổ muốn truyền y bát, ngài nói với các đệ tử, mỗi người làm một bài thơ, nếu ai chứng ngộ thì sẽ được kế tục sự nghiệp của ngài. Một đệ tử lớn lúc đó là Thần Tú đã làm 1 bài thơ, nhưng không dám trình, bèn viết lên vách, với nội dung "Thân như cội bồ đề, Tâm như đài gương sáng, Ngày ngày năng lau chùi, Đừng để cho bụi dính". Ngài Huệ Năng lúc đó đang giã gạo trong bếp, nghe được bài thơ trên, biết người viết chưa tỏ ngộ, bèn nhờ 1 người viết dùm 1 bài bên cạnh, với nội dung "Bồ đề vốn không thân, Gương sáng đâu cần đài, Xưa nay không một vật, Chỗ nào vướng trần ai?". Cuối cùng, Huệ Năng được trao y bát từ Ngũ tổ, trở thành tổ sư thiền đời thứ 6 của thiền tông Trung Hoa.
[3] Toàn bộ đoạn này nói về các điển tích Thiền học, xem thêm trong Nửa Ngày Của Thái Thượng Hoàng, Nhật Quang, NXB.Tổng Hợp Tp.HCM.

(hết)