Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)
Showing posts with label gioithieusach. Show all posts
Showing posts with label gioithieusach. Show all posts

Wednesday, September 14, 2016

Sáng tạo, đổi mới trong nền kinh tế tri thức

Sáng tạo, đổi mới trong nền kinh tế tri thức

Toàn cầu hóa và sự thay đổi nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã khiến mọi thứ nhanh chóng trở nên lạc hậu, và không còn phù hợp nữa, nếu không đổi mới, thay thế thì chúng có thể trở thành những rào cản cho sự phát triển và tiến bộ của tổ chức và xã hội. Nhu cầu đổi mới này không chỉ giới hạn ở các tổ chức kinh doanh, mà nó đã nhanh chóng mở rộng cả về phạm vi (quốc gia, khu vực, quốc tế), và cả về lĩnh vực (chính trị, văn hóa, xã hội…). 
Theo Stiglitz, một nhà kinh tế lớn của World Bank, ngày nay, tri thức đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế và đảm bảo phúc lợi xã hội. Vì vậy, cần phải xem xét các vấn đề phát triển kinh tế dưới góc nhìn tri thức, ở đó, giáo dục đóng một vai trò dẫn dắt cho sự phát triển. Trong nền kinh tế tri thức đó, sáng tạo và đổi mới là cực kỳ quan trọng.
Hơn nữa, theo Savage (1996) trong tác phẩm “Fifth Generation Management”, xã hội loài người đang bước vào làn sóng thứ 3 của sự phát triển: làn sóng thứ 1 là thời đại Nông nghiệp, sự giàu có đặt trên việc sở hữu đất đai; làn sóng thứ 2 là thời đại Công nghiệp, sự thịnh vượng dựa trên sự sở hữu vốn tư bản; và làn sóng thứ 3 là thời đại Tri thức, sự thịnh vượng đặt trên việc sở hữu tri thức và khả năng sử dụng tri thức để tạo ra và cải tiến các sản phẩm và dịch vụ. Chính vì vậy, ở thời đại này, quốc gia nào tạo được nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn vốn trí tuệ (phát triển giáo dục, thu hút nhiều nhân tài hơn, khuyến khích sáng tạo…) và biến nó thành giá trị nhằm phát triển đất nước thì sẽ có được vị thế cao trong cộng đồng quốc tế.
Sáng tạo và đổi mới là 2 khái niệm thường đi liền với nhau và có ý nghĩa tương đồng với nhau. Tuy nhiên, đổi mới thường chỉ đến những thay đổi về phương pháp hoặc quy trình ở phạm vi tổ chức hoặc quốc gia, còn sáng tạo thường chỉ đến năng lực tạo ra tri thức mới của cá nhân (Boulden, 2004). Thuật ngữ “đổi mới sáng tạo” khi gộp chung thường được hiểu là quá trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ và quy trình mới nhằm tăng năng suất, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và tính cạnh tranh trên thị trường. Đổi mới sáng tạo (Innovation) cũng là quá trình biến những ý tưởng mới, kiến thức mới thành các sản phẩm, dịch vụ và quy trình mới, đáp ứng nhu cầu của thị trường, mang lại lợi ích thiết thực cho người lao động và xã hội. Nói tóm lại, đổi mới & sáng tạo chính là hoạt động tạo ra tri thức mới, làm phát triển nguồn vốn trí tuệ, góp phần nâng cao giá trị của sản phẩm, dịch vụ, tăng năng suất lao động, cải thiện hiệu quả công việc và chất lượng cuộc sống.
Trong các nghiên cứu hàn lâm, “đổi mới” thường được phân thành 2 loại là: đổi mới tiệm tiến (incremental innovation), và đổi mới đột phá (disruptive innovation). Đổi mới tiệm tiến chỉ đến các sáng kiến, cải cách, sửa đổi nhỏ để hoàn thiện dần sản phẩm, quy trình. Còn đổi mới đột phá chỉ đến các thay đổi mang tính cách mạng, như là: công nghệ, giải pháp, sản phẩm mới hoàn toàn, nó góp phần thay đổi thị trường, tạo ra cách tiếp cận mới, hoặc thay đổi thang giá trị sẳn có.
Ở Nhật, có một thuật ngữ tương tự như đổi mới tiệm tiến, đó là "Kaizen". Tuy nhiên, kaizen đã được phát triển và trở thành một triết lý được áp dụng một cách sinh động trong nhiều công ty, tổ chức của Nhật Bản. Về mặt từ nguyên, “Kai” có nghĩa là “thay đổi”, còn Zen có nghĩa là “trở nên tốt hơn”. Triết lý Kaizen đề ra 5 yếu tố nền tảng và 3 nguyên lý. Năm yếu tố nền tảng của Kaizen bao gồm: (1) Làm việc nhóm (Teamwork), (2) Kỷ luật tự thân (Personal discipline), (3) Phát huy ý chí (Improved morale), (4) Vòng tròn chất lượng (Quality circles), (5) Đề xuất cải tiến (Suggestions for improvement). Ngoài ra, kaizen còn phát triển 3 nguyên lý là: (1) Loại bỏ lãng phí và kém hiệu quả, (2) Áp dụng nguyên tắc 5S (gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, trật tự, kỷ luật) cho quản lý văn phòng và gia đình, và (3) Chuẩn hóa.
Ở Việt Nam, ta thường nghe nhiều đến cụm từ "đổi mới", đặc biệt là liên quan đến chính sách mở cửa nền kinh tế từ những năm 1980. Tuy nhiên, khái niệm “đổi mới” thường có ý nghĩa vĩ mô, ở phạm vi nhà nước, mà ít gắn với các hoạt động của doanh nghiệp. Trong khi, khái niệm “sáng kiến”, “sáng tạo” lại thường được hiểu ở khía cạnh vi mô, gắn trực tiếp với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. 
Một thế kỷ trước, cụ Phan Bội Châu đã đến Nhật tiếp thu triết lý kaizen và đề xướng phong trào Duy Tân ở nước ta. Rất tiếc là phong trào Duy Tân kéo dài không lâu, nên cũng chưa tạo được thay đổi nào đáng kể, và chưa tạo được ảnh hưởng sâu rộng trong lối suy nghĩ và lối sống của người Việt Nam. Để tiếp nối ý nguyện đó, đồng thời đưa đất nước phát triển trong thời đại tri thức này, việc khuyến khích đổi mới sáng tạo, ở cả phạm vi nhà nước và doanh nghiệp là cấp bách hơn bao giờ hếtđối với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Lúc này, nếu không đổi mới, cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận nhìn thấy đất nước mình sẽ tụt hậu ngày càng xa trong cuộc tranh đua quốc tế, mà tốc độ và mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thời đại ngày nay đòi hỏi chúng ta phải hành động một cách nhanh chóng, dứt khoát và không thể chần chừ hơn nữa, bởi nếu chần chừ trong việc đổi mới nghĩa là chúng ta đã có tội với các thế hệ cha ông vì đã không thực hiện được mong mỏi của các vị, và cũng có tội cả với các thế hệ con cháu sau này khi để đất nước ngày càng tụt hậu so với các nước khác trên thế giới.
Trách nhiệm to lớn này đặt lên vai tất cả mọi người Việt Nam, đặc biệt là trông chờ ở thế hệ trẻ, những người có đầu óc dám đổi mới, biết học hỏi, tiếp thu tri thức khoa học và công nghệ, tạo ra những giá trị độc sáng dựa trên tri thức và óc sáng tạo, đưa đất nước vững bước phát triển đi lên theo kịp với các nước tiên tiến trên thế giới. Chỉ có con đường đổi mới và sáng tạo không ngừng mới có thể đưa đất nước cất cánh đi lên, mang lại sự thịnh vượng, ấm no cho cả dân tộc, và giúp người Việt Nam có thể hãnh diện “sánh vai” cùng bạn bè năm châu, bốn biển, như ước vọng muôn thuở của cha ông ta.
Nhiều nghiên cứu trước (Nonaka & ctg., 2010; Carr, 2013) đã chỉ ra rằng năng lực sáng tạo của cá nhân không những phụ thuộc vào kiến thức của họ, mà còn phụ thuộc vào khả năng tư duy và nhìn nhận vấn đề một cách khác biệt, từ đó khám phá ra cách thức mới hoặc phương pháp mới để giải quyết vấn đề. Ở mức độ tổ chức, năng lực đổi mới sáng tạo gắn liền với quá trình quản lý nguồn vốn tri thức, và biến nó thành các giá trị của tổ chức dưới dạng sáng chế và sáng kiến. Sáng chế và sáng kiến là 2 khái niệm khá gần gũi và thường được hiểu giống nhau. Tuy nhiên, cụ thể hơn, sáng chế là chỉ đến 1 giải pháp cho 1 vấn đề kỹ thuật (có thể là 1 ý tưởng đổi mới, hoặc 1 mô hình hoặc sản phẩm mẫu vận hành được); còn sáng kiến là chỉ đến việc chuyển sáng chế thành các sản phẩm hoặc quy trình có thể bán được trên thị trường (Cục SHTT, 2008). Ngày nay, để nâng cao năng lực sáng tạo, các tổ chức đều phải đầu tư đáng kể vào hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), đồng thời, phải tạo ra một môi trường văn hóa cởi mở, thân thiện và có chính sách hỗ trợ hoạt động sáng tạo của các cá nhân trong tổ chức.
Trong nền kinh tế ngày nay, việc quản lý sáng kiến trong công ty đòi hỏi nhà quản lý phải có một kiến thức vững vàng về hệ thống sáng chế để đảm bảo công ty có thể thu được lợi ích tối đa từ khả năng đổi mới và sáng tạo của mình. Ngoài ra, tổ chức cần xây dựng quan hệ đối tác có lợi (bao gồm: quy chế bảo mật, quy chế quản trị tài sản trí tuệ, hợp đồng chuyển giao công nghệ, mua/ bán li xăng…) với các chủ thể sáng chế và cần tránh việc sử dụng trái phép công nghệ do người khác sở hữu. Khác với trước đây, nhiều sáng kiến ngày nay rất phức tạp và phải dựa trên nhiều sáng chế thuộc sở hữu của nhiều chủ sở hữu sáng chế khác nhau.
Đứng từ góc độ luật về sở hữu trí tuệ, đầu ra của quá trình sáng tạo và đổi mới chính là những sản phẩm trí tuệ, chúng được tạo ra theo một chuỗi giá trị bên trong 1 tổ chức, bao gồm: hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D), sản xuất, bán hàng & tiếp thị… hoặc liên tổ chức, như: nghiên cứu & phát triển, chuyển giao tri thức (đại học, viện nghiên cứu), thử nghiệm, sản xuất & tiêu thụ (doanh nghiệp). Tuy nhiên, để được bảo hộ bởi luật sở hữu trí tuệ và mang lại giá trị cho tổ chức, các ý tưởng, sáng kiến phải biến thành các tài sản trí tuệ, được đăng ký bảo hộ với cơ quản quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, dưới các hình thức như: quyền tác giả, bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích, bí mật kinh doanh, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu …
Đối với cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, một ý tưởng sản phẩm, quy trình hay công nghệ mới muốn được bảo hộ, cần phải thỏa mãn các tiêu chí, trong đó 2 tiêu chí quan trọng nhất là tính sáng tạotính mới. Tính sáng tạo được hiểu là đối tượng phải chưa được công bố và có khác biệt đáng kể với những đối tượng đã được bộc lộ công khai trước đó. Tính mới được hiểu là đối tượng cần bảo hộ phải không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình trong lĩnh vực đó (điều này đòi hỏi sự nổ lực, kiến thức, và khả năng tư duy của tác giả).

Trong xu thế chú trọng vào sáng tạo và đổi mới đó, một khái niệm cũng có liên quan và được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây là sáng nghiệp (entrepreuneuship). Có thể xem sáng nghiệp/ khởi nghiệp là mức cao nhất của quá trình đổi mới và sáng tạo, bởi nó không chỉ hướng tới việc cải tiến quy trình, công nghệ, hay tạo ra một sản phẩm/ dịch vụ mới, mà nó còn hướng tới việc đem những ý tưởng mới vào kinh doanh, hoặc lập ra một doanh nghiệp mới dựa trên những sáng kiến, hoặc những kết quả thu được từ quá trình sáng tạo, đổi mới. Ngày nay, các trường đại học, viện nghiên cứu và chính phủ đều bắt đầu đề cập đến tầm quan trọng của khởi nghiệp, và thúc đẩy đào tạo về khởi nghiệp nhằm tạo ra sự năng động của nền kinh tế, và đảm bảo sự cạnh tranh hiệu quả trong thế kỷ 21.
(Nguồn: Giáo Trình Quản lý Tri Thức, NXB. Xây dựng, 2016)
---
PS. Bạn nào quan tâm đến lĩnh vực này có thể tìm đọc Giáo trình trên ở quầy sách ĐHBK nhé!

Sunday, July 3, 2016

Những mẫu chuyện Phật giáo dành cho thiếu nhi (tập 2)


LI NÓI ĐẦU

Sau khi xut bn tp 1 « Nhng mu chuyn Pht giáo dành cho thiếu nhi », tác giả đã nhn được nhiu phn hi, góp ý tích cc và khuyến khích tiếp tc mrng các câu chuyn Pht giáo hướng ti các đối tượng thiếu niên nhi đồng. Nhn thy, tác dng tích cc ca nhng mu chuyn này đối vi vic gieo mm Pht pháp la tui mm non, thiếu nhi, tác giđộng lc hoàn thin tp 2, vi mong mun hthng hóa các câu chuyn xoay quanh cuc đời Đức Pht, các đệ tln và các bài ging ca ngài trong sut cuc đời hong hóa.

Trung thành vi mc tiêu ban đầu là hướng ti đối tượng độc gilà các em nhỏ ở tui thiếu niên, nhi đồng, và htrcho các bc phhuynh trong vic giáo dc tr, nên các câu chuyn được chn lc da trên tiêu chí ngn gn, đơn gin, dhiu, phù hp vi tâm lý ca trnh. Bên cnh đó, cun sách cũng hướng ti mc tiêu nâng cao hiu biết vPht pháp bng cách hthng hóa nhng câu chuyn vcuc đời đức Pht và nhng giáo lý căn bn trong Pht pháp. Hy vng, qua nhng câu chuyn này, trstrnên quen thuc vi các khái nim như : Đản sanh, Niết bàn, Tdiu đế, Bát chánh đạo, Kh, Vô thường, Vô ngã... là nhng giáo lý căn bn ca đạo Pht, để từ đó có thtìm hiu thêm và ng dng vào cuc sng hàng ngày ở trường và nhà.

Bên cnh các câu chuyn gn lin vi Đức Pht, mt struyn ngngôn vloài vt, ctích Pht giáo cũng được đưa vào nhm giúp các em cm thy vui thích qua các hình nh thân thương ccác loài vt, giúp các em hiu biết hơn vthế gii tnhiên, cũng như phát trin lòng yêu thiên nhiên, và biết bo vmôi trường sng chung. Mong rng tp sách smang đến cho các em thiếu nhi và quý vphhuynh nhng giphút thư giãn bích và thú v, đồng thi gieo mm đạo đức và nuôi dưỡng tâm hn hướng thượng, hướng thin nơi các bé, qua nhng câu chuyn Pht giáo được chn lc mt cách cn thn. Chúc các em nhvà các bc phhuynh có nhng nim vui khi đọc cun sách này, và ng dng được nhng điều Pht dy trong cuc sng để gia đình luôn an lc và hnh phúc !


Nhân đây, cũng xin bày tlòng biết ơn đối vi các tác gi, tác phm, hình vẽ đã được tham kho trong tuyn tp này, mà tác gikhông có điều kin liên lc và xin phép. Cũng gi tng món quà này đến bà xã và các con, nhng người luôn bên cnh động viên, và khuyến khích tôi hoàn thành tp sách này.

Mong tiếp tc nhn được sự hưởng ng tcác em thiếu nhi và các bc phhuynh đối vi Nhng mu chuyn Pht giáo dành cho thiếu nhi tp 2 này. Rt mong nhn được các góp ý để bkhuyết cho ln tái bn sau được hoàn thin hơn. Mi góp ý xin gi về địa che-mail: pqtrung@gmail.com

Tác gikính bút,

Đức Kiên (Phm Quc Trung) 

----
PS. Sách hiện có tại P. Phát hành kinh sách Chùa Xá Lợi (89 Bà Huyện Thanh Quan, Q.3, TP.HCM)

Friday, June 26, 2015

Lời tựa - Những mẫu chuyện Phật giáo dành cho thiếu nhi

LỜI TỰA
(Những mẫu chuyện Phật giáo dành cho thiếu nhi, NXB. Phương Đông, 2015)

Giáo dục con trẻ nên người là một trong những mục tiêu lớn lao của các bậc làm cha, làm mẹ. Tuy nhiên, việc dạy trẻ là một nhiệm vụ khó khăn, bởi cần phải có phương pháp phù hợp, nội dung phù hợp với khả năng tiếp thu của trẻ.

Một trong những phương pháp được các nhà giáo dục khuyến khích đó là sử dụng các câu chuyện có chọn lọc để chuyển tải các bài học về đạo đức. Từ đó, xây dựng cho trẻ sự tự hiểu biết và vun bồi những hạt giống thiện trong tâm hồn trẻ em.

Nhận thấy, kho tàng truyện cổ tích Phật giáo là một nguồn phong phú, có nhiều mẫu chuyện phù hợp để đọc cho trẻ nghe trước khi đi ngủ. Tuy nhiên, khi tìm kiếm các sách truyện Phật giáo hiện tại, số lượng sách chỉ dành cho thiếu nhi là rất ít. Đó chính là động cơ để tác giả thực hiện quyển sách này, là sưu tầm lại các mẫu chuyện Phật giáo đó đây, với tiêu chí là ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với suy nghĩ và tâm lý thiếu nhi.

Nội dung của quyển sách này là tập hợp các mẫu chuyện về cuộc đời và tiền thân Đức Phật, các lời dạy của Phật dành cho con trai La Hầu La và các đệ tử. Ngoài ra, còn có các mẫu chuyện ngụ ngôn, cổ tích về loài vật phù hợp với trẻ em.

Hy vọng, quyển sách sẽ là công cụ hữu ích đối với các bậc phụ huynh trong việc dạy con, là phương tiện để ươm mầm trí tuệ và yêu thương trong tâm hồn con trẻ. Mong rằng, nhờ quyển sách này những đóa hoa tình thương và hiểu biết sẽ nở rộ trong tương lai. Đó chính là mong mõi của tác giả và các bậc phụ huynh. Rất mong nhận được các phản hồi, góp ý để bổ khuyết cho những lần in sau.

Sài Gòn, 1/ 2015
Đức Kiên (Phạm Quốc Trung)

Sunday, November 25, 2012

LÀM VIỆC MỘT NGUỒN VUI

Gần đây, đọc được vài cuốn sách hay về mối quan hệ giữa công việc và cảm giác hài lòng/ hạnh phúc khi làm việc, cũng rút ra được vài điều ý nghĩa, nên giới thiệu để mọi người cùng tìm đọc.

Quyển 1: Nghệ thuật Hạnh phúc trong Công việc, tác giả Dalai Lama, biên dịch Khánh Vân, NXB. Tôn giáo, 2007

Quyển 2: Làm việc - một nguồn vui, tác giả Tarthang Tulku Rinpoche, dịch giả Thích Nữ Trí Hải (bản điện tử truy xuất tại http://www.quangduc.com/thoidai/90nguonvui.html )

Mỗi cuốn có 1 nét riêng bàn về các khía cạnh khác nhau ảnh hưởng đến niềm vui, hạnh phúc trong công việc. Nhưng qua đó, người đọc sẽ rút ra cho mình nhiều bài học bổ ích, đặc biệt là việc ứng dụng tinh thần nhà Phật trong công việc, từ chọn lựa công việc chơn chánh, cho đến việc đối phó, ứng xử với những hoàn cảnh bất như ý trong công việc... Dưới đây, là trích dẫn lời tựa của Quyển 2 ở trên để mọi người cùng tham khảo.

----------------------------------------------------------


LỜI TỰA (LÀM VIỆC MỘT NGUỒN VUI)


Đối với nhiều người ngày nay, công việc làm đã mất dần ý nghĩa. Nỗi chán chường này không chỉ giới hạn vào một số nghề nghiệp, môi trường hay tín ngưỡng nào, nó từ từ thấm lan khắp mọi ngõ nghách của công việc nói chung. Đây quả là điều bất hạnh, vì công việc vốn dĩ là một phương tiện rất hữu hiệu để chúng ta tìm được lạc thú sâu xa trong đời sống. Công việc có thể là một nguồn suối của sự tăng trưởng, một cơ hội cho ta hiểu thêm về chính ta và để phát triển những tương quan tích cực, lành mạnh với mọi người. Nếu nhìn công việc theo cách ấy thì ta sẽ thấy thực không có gì khác nhau giữa sự dành năng lượng tâm trí mình cho công việc và dành năng lượng để cải thiện sự tỉnh thức và để thưởng thức hương vị đời sống.

Tuy vậy thực không luôn luôn dễ dàng tìm cách khiến cho công việc trở thành một con đường vui sống. Trong khi làm việc với những học viên, tôi vẫn hàng ngày cố khuyến khích để họ tìm được trong chính họ những phương thức ngõ hầu rút được niềm vui, sự viên mãn từ công việc họ làm. Đây không phải là dạy dỗ theo ý nghĩa truyền thống, mà là những gợi ý, cốt để hướng dẫn họ trong công việc và trong sự tự mỡ mang của họ. Sách này có ra từ những ghi chú trong các buổi thảo luận hàng ngày, nó triển khai từ nhiều buổi nói chuyện thân mật. Phương tiện khéo (tên sách nguyên ủy, đã được DG đặt lại) đề cập những cảnh ngộ tiêu biểu mà người ta thường gặp trong công việc và trong đời sống hằng ngày. Đấy là những thói quen mẫu mực tư duy và hành xử vốn thường ngăn cản chúng ta đạt được mục đích mình và tìm được ý nghĩa chân thật trong đời sống.

Thay đổi những mẫu mực đã thành nếp từ thuở nhỏ là một bài học khó nhất cho cả người dạy lẫn người học. Chúng ta thường tưởng rằng những tập quán ta đã quen suốt đời thì không thể nào thay đổi, bởi vậy ta cảm thấy mình bị giới hạn trong một vài việc. Nhưng kỳ thực là không có giới hạn nào cho những gì ta có thể thành tựu, nếu ta thực tình đón nhận mọi cơ hội mà cuộc đời đem lại cho ta. Ta có thể phá vỡ những giới hạn do mình tự tạo, làm những thay đổi lớn, khám phá những khả năng mới mà ta chưa bao giờ biết là mình có được. Quan trọng nhất là ta có thể bừng tỉnh trước những khả năng thực thụ của ta.

Dùng công việc làm phương tiện để tự mở mang và trưởng thành đã đem lại một thay đổi sâu xa trong đời các học viên và cả trong đời tôi. Tôi đã lập nguyện san sẻ với người khác những gì tôi học được, đây là trách nhiệm của tôi, là sự đóng góp của tôi cho cuộc đời. Công việc đã giáo dục tôi một cách phong phú, tôi vô cùng biết ơn về biết bao nhiêu cơ hội tôi có được để học tập và san sẻ.

Trong 20 năm qua, tôi đã có dịp quan sát những lề lối làm việc và lối sống ở cả Đông lẫn Tây phương. Sau khi rời Tibet năm 1959, tôi dạy học và làm việc ở Ấn Độ 10 năm trước khi qua Mỹ. Từ 10 năm nay tôi vẫn làm việc ráo riết hàng ngày cùng với những người Mỹ thuộc nhiều môi trường, nghề nghiệp khác nhau, ở các lãnh vực quản trị kinh doanh, giáo dục, hành chánh, tư vấn, xây dựng, in ấn sách và các nghệ thuật tạo hình.

Mặc dù đóng vai giảng dạy, tự thâm tâm tôi là một kẻ học trò, học sống và học bản tính con người. Hoàn cảnh tôi, sự tu tập của tôi ở Tibet không trực tiếp chuẩn bị cho đời sống trong văn hóa Tây phương, bởi vậy tôi đã vô cùng quan tâm học hỏi từ kinh nghiệm làm việc ở Tây phương. Thông thường khi thấy một nền văn hóa bằng con mắt người ngoài, ta có thể có một nhãn quan mới về những hoàn cảnh, những thái độ mà người trong cuộc thường cho là bình thường. Tôi đã thấy và đã cảm được nỗi chán chường mà nhiều người cảm thấy đối với công việc của họ.

Thế mà tôi lại thấy công việc của mình rất bõ công, rất hứng thú, mặc dù công việc ấy không phải luôn luôn dễ dàng gì.

Mục đích của sách này là san sẻ với bạn đọc những kinh nghiệm ấy, mong chúng có thể giúp bạn tìm ra nguồn vui lớn trong công việc và trong đời sống. Mỗi con người là độc nhất vô nhị, mỗi hoàn cảnh sống cũng khác nhau, bởi thế mỗi cá nhân có thể tìm thấy trong đây một điều riêng có giá trị với họ, để thúc đẩy họ tìm cách nhận ra những khó khăn, rồi vượt qua chúng, và tiến lên để trưởng thành và được thỏa mãn.

Khi sử dụng phương tiện khéo, ta đi thẳng vào công việc mình, hành động ngay để giải quyết vấn đề, và khai mở tiềm năng tự nhiên của ta. Mỗi chúng ta đều có tiềm năng ấy và nếu nhận ra được nó thì ta có thể san sẻ với ngưới khác những tuệ giác và tình yêu của mình đối với công việc. Cuối cùng ta có thể đem lại lợi ích và niềm vui cho tất cả mọi người, để mọi người cũng học tập cách sống những cuộc đời đem lại cho họ thỏa mãn.

Có thể có người ưa triển khai những tư tưởng này cho phù hợp với tiến trình công việc của riêng họ, với sự tăng trưởng nội tâm họ. Ai đề ra những ý tưởng này trước tiên là điều không quan trọng, điều quan trọng là cái giá trị của việc thực hành những ý tưởng này trong công việc và trong mọi sự khác nhau của cuộc sống.

Đây là một thời đại thật khó sống, khó mà làm mọi sự cho thật có ý nghĩa, nên đa số người đang tìm cách làm cho công việc và đời sống họ đem lại niềm vui và ý nghĩa. Và đây là một vài suy tư tích lũy trong nhiều năm qua, mà tôi muốn san sẻ cùng các bạn.

Tôi muốn bày tỏ niềm biết ơn sâu xa đến các học viên, cộng sự viên ở nhà xuất bản Dharma Publising về sự giúp đỡ của họ trong việc xuất bản sách này. Sự đóng góp thì giờ và năng lực của họ thật vô giá trong việc cho ra quyển sách này.

                                                             TARTHANG TULKU
Tháng 10, 1978

Wednesday, November 10, 2010

Lựa chọn Thành công

Lựa chọn Thành công
Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai của Việt Nam
(Một khuôn khổ chính sách phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020)

Đây là một báo cáo của nhóm nghiên cứu Đại Học Harvard về nền kinh tế Việt Nam, được công bố từ vài năm trước, nhưng tới nay đọc lại vẫn còn rất phù hợp. Bài viết này trình bày một khuôn khổ chiến lược giúp Việt Nam xác định các ưu tiên và đưa ra các quyết sách kinh tế cho những năm đầu của thế kỷ 21. Luận điểm chung của bài viết là phân biệt 2 mô hình phát triển kinh tế của các nước Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Singapore) và mô hình của các nước Đông Nam Á (Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippine...). Mô hình Đông Á được xem là kiểu mẫu của sự thành công, giúp các nước vượt qua mức thu nhập trung bình để trở thành các nước có mức thu nhập cao (>10.000 USD/người). Mô hình Đông Nam Á được xem là mắc vào bẫy thu nhập trung bình, nghĩa là sau một thời gian phát triển nhanh, thì tốc độ chậm lại và không thể vượt qua ngưỡng thu nhập 5.000 USD/người.

Năm khía cạnh chính về chính sách được tập trung phân tích nhằm so sánh 2 mô hình kinh tế trên là : Giáo dục, Cơ sở hạ tầng, Năng lực cạnh tranh của DN, Hệ thống tài chính, Hiệu năng của nhà nước, và Tính công bằng xã hội. Từ các phân tích, bài viết cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang có nguy cơ đi theo mô hình các nước Đông Nam Á, và đề xuất các khuyến nghị cải cách để giúp Việt Nam có thể điều chỉnh chính sách theo mô hình phát triển của các nước Đông Á, nhằm đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp phát triển vào năm 2020.

Đây là một bài viết khá hay và đáng đọc đối với cả các nhà nghiên cứu, các sinh viên kinh tế và những người làm chính sách của đất nước. Tuy nhiên bài viết khá dài, không thể đăng trên blog hết được. Những ai quan tâm, muốn tìm đọc bản pdf của tài liệu này, xin vui lòng liên hệ qua e-mail. Trong phạm vi blog này, chỉ xin giới thiệu một phần liên quan đến chủ đề Giáo dục (phân tích và khuyến nghị chính sách) để mọi người tham khảo. Hy vọng, những góp ý trong bài viết này sẽ mang lại lợi ích nào đó đối với người đọc và những ai đang công tác trong ngành giáo dục.

1. Phân tích hiện trạng giáo dục Việt Nam

Hệ thống giáo dục của Việt Nam hiện đang khủng hoảng. Mặc dù tỷ lệ đi học ở các cấp phổ thông tương đối cao, nhưng chất lượng của các bậc học này rất đáng lo ngại. Kết quả trượt tốt nghiệp trung học phổ thông trong năm 2007 cho thấy nhiều học sinh thậm chí còn không nắm được kiến thúc cơ bản. Bên cạnh đó, số lượng sinh viên được vào đại học cũng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong những người ở độ tuổi học đại học. Trong năm 2000, tỷ lệ lao động tốt nghiệp đại học chỉ chiếm 2% tổng dân số, so với 5% ở Trung Quốc và 8% ở Ấn Độ là những nước đông dân hơn rất nhiều.

Năm 2005, tỷ lệ sinh viên đỗ đại học ở Việt Nam chỉ là 16%, trong khi con số này ở Trung Quốc và In-đô-nê-xia là 17%-19%, còn ở Thái-lan là 43%. Mặc dù số lượng sinh viên đại học đã tăng một cách đáng kể từ năm 1990 nhưng với hạn chế về cả số lượng và chất lượng giảng viên, hệ thống đào tạo đang ngày càng bị dồn nén. Không những thế, chất lượng đào tạo ở các trường đại học của Việt Nam chưa đạt chuẩn. Giảng viên ở các trường đại học của Việt Nam có rất ít bài đăng trên các tạp chí quốc tế. Trên thực tế, trường đại học của Việt Nam thua xa khi so với ngay cả trường của các nước Đông Nam Á - vốn chưa phải là những trường đẳng cấp quốc tế. Nếu nhìn vào sản phẩm đào tạo thì khoảng phân nửa sinh viên ra trường ở Việt Nam không được làm đúng ngành đào tạo.

Những kết quả đáng buồn như vừa miêu tả không phải do hệ thống giáo dục hiện nay thiếu tiền. Trên thực tế, tỉ lệ ngân sách dành cho giáo dục trong GDP của Việt Nam cao hơn hầu hết các nước trong khu vực. Như vậy, vấn đề thực sự nằm ở chỗ nguồn lực này được sử dụng như thế nào, và đặc biệt, nằm ở cấu trúc quản trị xơ cứng và bất cập ở mọi cấp độ của hệ thống giáo dục. Chi tiêu của hệ thống giáo dục hiện nay kém minh bạch và lãng phí. Như lời bình luận của một tác giả trên báo Tuổi Trẻ, nếu những con số chính thức về quỹ lương là đáng tin cậy thì mức lương trung bình của giáo viên phải cao gần gấp đôi mức lương thực tế họ đang được nhận. Vậy thì tiền đi đâu? Không lẽ nó đã bị cơ chế hiện nay “nuốt chửng”? Với một hệ thống quản trị như vậy, đổ thêm tiền vào chỉ là giải pháp tình thế mà không thể giải quyết được những vấn đề cơ bản nhất của nền giáo dục Việt Nam về chất lượng và khả năng tiếp cận. Trong giáo dục đại học, các trường cần phải có nhiều quyền tự chủ hơn để có thể chuyên môn hóa sâu, cạnh tranh trên cơ sở chất lượng và phù hợp với nhu cầu của thị trường. Chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, đề bạt phải chuyển từ tiêu chuẩn “thâm niên” sang “kết quả”. Cần mở rộng nguồn tài trợ cho các trường đại học, không chỉ bao gồm học phí và các khoản hỗ trợ của nhà nước, mà còn bao gồm hợp đồng nghiên cứu và đóng góp hảo tâm của khu vực tư nhân. Chất lượng các trường đại học là một chỉ báo đáng tin cậy cho mức độ phát triển của nền kinh tế. Những nước giàu và đang trở nên giàu thường có nhiều trường đại học tốt, còn những nước nghèo thì không. Hiện nay, các trường đại học của Việt Nam có thể bị xem như là kém nhất so với hầu hết các nước đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á, chứ chưa cần so với Đông Á. Nếu như không có những biện pháp cấp thiết để cải cách giáo dục thì chắc chắn là Việt Nam sẽ không thể đạt được các mục tiêu đã đề ra về công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Như đã lưu ý ở trên, các nước Đông Á rất chú trọng tới việc thúc đẩy năng lực phát triển công nghệ của quốc gia. Sử dụng mọi thước đo khách quan, dường như nền khoa học và công nghệ của Việt Nam là một thất bại. Điều này, đến lượt nó, lại là một trong những trở ngại chính cho tăng trưởng kinh tế. Trong năm 2002, Việt Nam chỉ đăng ký có 2 bản quyền với Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO). Năm 2006, các nhà nghiên cứu của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) đăng được 41 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế. Cũng trong năm đó, chỉ riêng các nhà nghiên cứu của trường Đại học Phúc Đán ở Thượng Hải đã đăng được 2.286 bài trên các tạp chí quốc tế. Mặc dù kết quả đáng thất vọng như vậy nhưng mới đây chính phủ đã tuyên bố kế hoạch biến các nhà nghiên cứu của VAST thành hạt nhân cho một trường đại học khoa học và công nghệ mới của Việt Nam. Liệu có nên đặt niềm tin của việc đào tạo các thế hệ nhà khoa học và kỹ sư tương lai của Việt Nam vào một tổ chức yếu kém về năng lực nghiên cứu khoa học? Đây lại là một ví dụ nữa cho nỗ lực che chắn cạnh tranh của các tổ chức thất bại thông qua các biện pháp hành chính. Một lựa chọn tốt hơn là nới lỏng kiểm soát đối với các viện nghiên cứu và trường đại học, và cho phép các tổ chức này cạnh tranh với nhau để thu hút được những giảng viên và sinh viên xuất sắc nhất và những nguồn tài trợ dồi dào nhất - tất cả đều dựa trên kết quả hoạt động thực tế.

Để cải thiện chất lượng giáo dục đại học và khoa học, các trường đại học của Việt Nam phải tạo những điều kiện thuận lợi nhất và có những ưu đãi hấp dẫn nhất để thu hút được những nhà khoa học hàng đầu. Chính phủ Trung Quốc đã khuyến khích các trường đại học của mình xâm nhập thị trường chất xám toàn cầu, và các trường này đang ngày càng thành công trong việc mời được những nhà khoa học Trung Quốc xuất sắc nhất từ Mỹ và từ các nước khác trở về với mức đãi ngộ và hỗ trợ nghiên cứu cạnh tranh. Trái lại, Việt Nam chưa sẵn sàng chấp nhận tham gia “cuộc chơi” săn lùng chất xám này. Trên thực tế, những người xuất sắc nhất trong hệ thống của Việt Nam vẫn phải chịu một sự ghen tị nếu như họ có may mắn được đãi ngộ một cách trọng thị hơn những người khác. Thị trường chất xám là một thị trường toàn cầu, và những nhà khoa học xuất sắc nhất của Việt Nam có rất nhiều lựa chọn trong thị trường này. Chắc chắn là chỉ có một số rất ít nhà khoa học xuất sắc chịu chấp nhận các điều kiện làm việc ở các trường đại học của Việt Nam như hiện nay. Lòng yêu nước của mỗi nhà khoa học đều có, nhưng họ cũng cần cả những sự đãi ngộ và tôn trọng xứng đáng nữa.

2. Khuyến nghị chính sách phát triển giáo dục Việt Nam

(1). Cần công khai các ngân sách nhà nước dành cho giáo dục: Cuộc khủng hoảng hiện nay trong giáo dục không phải là hậu quả của việc thiếu đầu tư mà một phần là do sự lãng phí và kém hiệu quả trong chi tiêu giáo dục. Tăng cường tính minh bạch là một bước thiết yếu đầu tiên để cải thiện hệ thống giáo dục. Thứ nhất, nếu phụ huynh học sinh và báo chí có những hiểu biết đầy đủ hơn về cách thức phân bổ ngân sách giáo dục thì họ có thể thực hiện chức năng giám sát một cách hiệu quả hơn. Chính quyền trung ương khi ấy cũng có thể quy trách nhiệm cho chính quyền địa phương và lãnh đạo nhà trường một cách dễ dàng hơn. Thứ hai, sự minh bạch sẽ giúp chính phủ thành công hơn trong việc huy động nguồn tài trợ từ khu vực tư nhân và thiện nguyện vì khi ấy các nhà tài trợ sẽ có cơ sở để tin rằng đồng tiền đóng góp của mình được sử dụng một cách hiệu quả.

(2). Thực hiện một cuộc cách mạng trong giáo dục đại học: Tình trạng khủng hoảng trong giáo dục đại học là một trở ngại cơ bản cho sự tiếp tục phát triển của Việt Nam, và vì vậy, những trở ngại này cần phải được giải quyết một cách mạnh mẽ, càng sớm càng tốt. Thực tế là chính phủ Việt Nam biết phải hành động như thế nào. Quyết định 14 kêu gọi một cuộc “cải cách toàn diện” đối với hệ thống giáo dục đại học, trong đó bao gồm những cải cách then chốt cần thiết để thổi một luồng sinh khí mới vào hệ thống. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện quyết định này đang quá chậm chạp. Nếu tốc độ cải cách giáo dục vẫn chậm chạp như hiện nay thì ngay cả việc đuổi kịp các nước Đông Nam Á cũng đã là một cái đích xa vời, còn nói gì đến việc đuổi kịp các nước Đông Á.

Nếu không cải thiện được kết quả của giáo dục đại học thì Việt Nam sẽ không thể tận dụng được một cách trọn vẹn lợi ích của đầu tư nước ngoài. Việt Nam đã thành công trong việc thu hút được một số nhà đầu tư hàng đầu thế giới trong lĩnh vực công nghệ cao như Intel, Canon, Nidec, và Foxconn. Đây là một cơ hội ngàn vàng để Việt Nam chuyển đổi và vượt lên chiếm lĩnh những ngành có giá trị gia tăng cao hơn. Để có thể tận dụng tốt cơ hội này, Việt Nam cần đào tạo một số lượng lớn lao động có kiến thức và công nhân có kỹ năng để cung cấp cho những nhà đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp trong nước. Nếu không thì có lẽ Việt Nam sẽ rơi vào hoàn cảnh tương tự như Ma-lay-xia - chịu thua trong cuộc cạnh tranh với các quốc gia có lao động tay nghề cao hơn với chi phí thấp hơn. Ngay ở Việt Nam hiện nay thì tình trạng mặt bằng lương gia tăng nhanh chóng, cùng với sự thiếu hụt lao động và công nhân liên tục chạy từ nơi này sang nơi khác đã làm nhiều nhà đầu tư tiềm năng phải cân nhắc kỹ trước khi đầu tư vào Việt Nam.

(Trích từ Lựa Chọn Thành Công)