Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)
Showing posts with label quanlytrithuc. Show all posts
Showing posts with label quanlytrithuc. Show all posts

Tuesday, March 3, 2020

VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC, GIÁO DỤC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG NỀN KINH TẾ TRI THỨC

VAI TRÒ CỦA TRÍ THỨC, GIÁO DỤC VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TRONG NỀN KINH TẾ TRI THỨC

PGS.TS. Phạm Quốc Trung
  

1.      Công nhân tri thức – nguồn tài nguyên vô giá

Khái niệm công nhân tri thức (knowledge worker) hay còn gọi là công nhân cổ trắng, để chỉ đến những người lao động trí óc nói chung, như là: nhân viên văn phòng, quản lý, chuyên gia… Khái niệm này đã được Peter Drucker, cha đẻ của quản trị học hiện đại, đề cập đến từ rất sớm (1960), để phân biệt với công nhân cổ xanh hay người lao động chân tay. Điểm khác biệt chủ yếu của công nhân tri thức là công cụ lao động chính là kiến thức nằm trong đầu và năng lực tư duy của họ. Theo dự báo của ông, lực lượng công nhân tri thức sẽ ngày càng tăng về số lượng và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới.
Ngày nay, khi kinh tế thế giới chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức (hậu công nghiệp), cùng với đà phát triển của công nghệ và mức độ toàn cầu hóa, thì những dự báo trên là hoàn toàn chính xác. Trong nền kinh tế tri thức, các quốc gia cạnh tranh với nhau một cách gay gắt trong việc thu hút lực lượng công nhân tri thức, hay đội ngũ chất xám đến làm việc và đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế nước mình. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, do môi trường lao động chưa phù hợp, nên thường có hiện tượng chảy máu chất xám, tức là sự ra đi của lực lượng lao động có tay nghề và trình độ cao.
Về định nghĩa, có một khái niệm gần gũi hơn để chỉ người công nhân tri thức đối với người Việt Nam, đó là kẻ sĩ, hay các nhà trí thức. Trí thức là tầng lớp mà nhà cầm quyền nào cũng phải xem trọng, vì ngoài việc tốn công phu đào tạo dài ngày (tốn kém ngân sách nhà nước, ngân sách gia đình, mỗi cá nhân…) còn là bộ mặt ngoại giao, chính trị… của một đất nước. Muốn biết chính sách hoặc tiềm năng một quốc gia như thế nào, người ta cũng quan tâm đến sự đãi ngộ hoặc việc sử dụng tầng lớp trí thức ra sao ?
Do đó vai trò của người trí thức hết sức quan trọng đối với xã hội, một phần của khuôn mặt bang giao quốc tế. Mặt khác, xã hội ta, từ xưa rất chuộng sự học, nó trở thành truyền thống, đạo thống của dân ta. Ngày xưa các cụ trọng sự học đến nỗi thấy tờ giấy có viết chữ (chữ nho), dặn con cháu không được buớc qua, bước qua là bất kính là không bao giờ học giỏi được… Kẻ sĩ còn sống trong lòng người dân, cầm nắm thế đạo nhân tâm, là khuôn vàng thước ngọc của sự mẫu mực, là người âm thầm lãnh đạo cả một mặt trận văn hoá từ các tác phẩm lớn của nền văn chương bác học, đồng thời cũng là đồng tác giả các truyện khuyết danh, vô danh, văn chương bình dân… thẩm thấu trong mọi tầng lớp nhân dân. Trừ những người đã nổi tiếng, phần lớn họ là những chiến sĩ vô danh, sống âm thầm trong bóng tối, nhưng nuôi dưỡng cho dân chúng bao tình cảm cao đẹp, lòng yêu nước, ý chí quật cường, tinh thần cách mạng…
·        Về định nghĩa trí thức
Trí thức hay intellectuel (Pháp) hay intellectual (Anh) trong từ điển vốn là một tính từ, còn danh từ gốc của nó là intellect (trí tuệ, trí thông minh). Theo lịch sử, danh từ “trí thức” ra đời sau, gắn liền với một sự kiện chống bất công, còn “người trí thức” ra đời khi xã hội thừa nhận danh từ này.
Có nhiều định nghĩa trí thức, rất dễ tìm trên internet. Do vậy, khi bàn về trí thức thường người ta phải xác định khái niệm trước khi bàn tiếp. Dẫu vậy, vẫn có thể phân chia các định nghĩa hiện hành thành 2 nhóm: nhóm chặt chẽ (rất hữu dụng khi bàn vấn đề ở bình diện triết lý, gồm cả thiên chức, nhiệm vụ trí thức đối với nhân quần, xã hội) và nhóm thông dụng (để dùng rộng rãi trong đời sống, dễ hiểu với trình độ chung). Một cách chặt chẽ, trí thức phải là người: (1) Sáng tạo những giá trị tinh thần. Mức độ sáng tạo cho phép tách ra những trí thức lớn, tầm cỡ nhân loại; và (2) Chỉ tôn thờ những giá trị tinh thần vĩnh hằng: Chân, Thiện, Mỹ. (Nguồn : http://chungta.com/)
·        Đặc tính của trí thức
Từ cái gốc này, do đặc trưng lao động, trí thức có những phẩm chất, tính cách nhất định – không bẩm sinh và cũng không phải là độc quyền của trí thức. Ví dụ, để sáng tạo, trí thức phải có một cái vốn tri thức cao hơn mặt bằng chung (đã đành) nhưng quan trọng là phải bổ sung suốt đời (để sáng tạo tiếp). Điều này rất tương đối, vì mặt bằng dân trí mỗi thời một khác. Hơn nữa, trí thức phải là người ham học hỏi và xem việc tiếp nhận, chia sẻ và đóng góp vào kho tri thức của nhân loại là công việc và bổn phận của mình. Việc tiếp thu kiến thức/thông tin mới phải gắn liền với khả năng suy nghĩ và nghiên cứu độc lập của mỗi người. Người trí thức là người có khả năng tiếp cận và áp dụng tri thức một cách tích cực, chủ động và hiệu quả trong từng phạm vi hoạt động cụ thể của mình.
Do tôn thờ chân lý, trí thức chỉ tin những gì đã được chứng minh đầy đủ và do đó bảo vệ sự thật đến cùng. Khám phá ra chân lý là hạnh phúc cao nhất, do vậy họ có yêu cầu bức xúc công bố và đòi hỏi được công bố (Galilê bị cấm công bố “quả đất tròn”). Tuy quyết bảo vệ kết quả nghiên cứu bằng tranh luận, nhưng trí thức cũng sẵn sàng nhận sai lầm, từ bỏ niềm tin, nếu có chứng minh đầy đủ – từ đó họ đòi hỏi tự do tư tưởng, tự do ngôn luận… Tôn thờ cái tốt (thiện), trí thức rất nhậy cảm khi cái xấu lộng hành (ví dụ bất công, áp bức, hạn chế tự do, dân chủ giả hiệu…). Can đảm là một tính cách của trí thức: dám nói ra và dám bảo vệ chân lý. Khổng Tử nói nho sĩ phải là người đủ ba phẩm chất: có trách nhiệm cao, có lòng tự trọng và dũng cảm. Ngoài tài năng, giới trí thức xưa còn được ca ngợi là “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giàu sang không làm mê muội, nghèo khổ không làm lay chuyển, bạo lực không khuất phục nổi).
Chính do được tôn vinh, trí thức cũng có “thật” và “giả” vì có những người muốn được tôn vinh bằng công sức tối thiểu. Một xã hội có quá nhiều trí thức “giả” là xã hội thoái hoá và hỗn loạn, vì thứ “giả” này sẽ chiếm những địa vị cao, ảnh hưởng lớn, kể cả có quyền cho phép nhiều loại “giả” khác phát triển.

2.      Vai trò giáo dục & NCKH trong nền kinh tế tri thức

·        Giáo dục & NCKH trong nền kinh tế thế giới
Theo Stiglitz, một nhà kinh tế lớn của World Bank, tri thức đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế và đảm bảo phúc lợi xã hội. Ông còn đề nghị cần phải xem xét các vấn đề phát triển kinh tế dưới góc nhìn tri thức, ở đó, giáo dục đóng một vai trò dẫn dắt cho sự phát triển. Trong nền kinh tế tri thức đó, sáng tạo là cực kỳ quan trọng, vì vậy các doanh nghiệp nhỏ có thể cung cấp những nền tảng cho sự đổi mới của xã hội tốt hơn nhiều so với các doanh nghiệp to lớn cồng kềnh.
Trong nền kinh tế tri thức, các doanh nghiệp không chỉ nhận thấy tầm quan trọng của nghiên cứu phát triển, mà họ còn thấy rằng việc nhanh chóng đưa các sản phẩm mới ra thị trường còn quan trọng hơn nhiều. Vì vậy, để nhấn mạnh sự kết nối giữa hoạt động nghiên cứu khoa học (tìm ra tri thức mới) và hoạt động sản xuất kinh doanh (biến tri thức thành sản phẩm trên thị trường), các tổ chức đã đặt lại tên của bộ phận Nghiên cứu & Phát triển (R&D) thành Nghiên cứu, Phát triển & Thương mại hóa (R&D&C), hoặc Khoa học, Công nghệ & Dự án (S&T&P). Sự chuyển đổi này càng cho thấy tốc độ ngày càng tăng của việc tạo ra tri thức mới và đưa tri thức vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngày nay, với sự tiến bộ của công nghệ, và yêu cầu cạnh tranh của thị trường toàn cầu, tốc độ đưa ra thị trường của các thế hệ công nghệ mới được rút ngắn một cách đáng kể.
·        Giáo dục trong bối cảnh Việt Nam
Ngày nay, nước ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước để theo kịp đà phát triển của thế giới, việc nâng cao vị thế đất nước để hội nhập với xu hướng phát triển chung của nhân loại trong nền kinh tế tri thức là một nhu cầu vô cùng cấp bách. Điều này, đòi hỏi những chính sách đúng đắn của chính phủ trong việc phát huy các điểm mạnh hiện tại, khắc phục những yếu kém, bất cập trong hai lĩnh vực Giáo dục và KHKT, tiếp tục phát triển hơn nữa hạ tầng cơ sở và CNTT để tạo thuận lợi cho các yếu tố khác phát triển.
Trong thời đại tri thức, hơn lúc nào hết, Việt Nam cần phải tạo được môi trường thuận lợi cho Giáo dục đào tạo và NCKH, để từ đó nâng cao trình độ giáo dục chung của toàn dân. Chính phủ và ngành giáo dục cần chú trọng vào việc tạo ra và đáp ứng đủ nhu cầu về đội ngũ kỹ sư, công nhân tri thức, khoa học gia có đủ chất lượng, có khả năng tiếp thu tri thức của thế giới, ứng dụng vào thực tiễn công việc, sáng tạo và đóng góp và kho tàng tri thức chung của nhân loại.
Nền giáo dục đại học ở nước ta đã trải qua nhiều lần cải cách, tuy nhiên các mô hình và phương pháp giáo dục vẫn chưa có nhiều thay đổi mang tính đột phá. Người ta vẫn thấy hình ảnh ông thầy đến lớp, làm nhiệm vụ truyền bá kiến thức, và sinh viên đến lớp lắng nghe, ghi chép… Những hoạt động này lặp đi lặp lại như một cái máy, khiến cho việc dạy và học thiếu hẳn tính sáng tạo, sinh động cần có. Mặc dù, người thầy có chú trọng sử dụng những kỹ thuật truyền thụ nhằm tạo ra những phản ứng tích cực nơi người học, và sinh viên cố gắng đến lớp đầy đủ để tiếp thu kiến thức, nhưng hiệu quả đạt được vẫn không cao, vì cả thầy và trò đều tách rời những gì được học, được dạy ra khỏi thực tế sinh động của cuộc sống. Thậm chí có những môn học mang tính chất lý thuyết đơn thuần, hoặc nội dung quá lạc hậu so với thực tế, khiến cho người học không thấy được những ứng dụng và ý nghĩa thực tiễn của môn học.
Gần đây, nhiều trường đại học đã và đang cố gắng tìm ra những hướng đi mới dựa theo các phương pháp giáo dục ở các nước tiên tiến, chẳng hạn : tăng các giờ trao đổi, thực tập ngoại khóa, các buổi seminar về những đề tài có liên quan đến môn học, cho sinh viên đi khảo sát thực tế rồi báo cáo, sử dụng phương tiện Internet trong tìm kiếm thông tin, tri thức… Những chuyển biến này làm phong phú hơn các nguồn cung cấp tri thức cho sinh viên, tạo được hứng thú trong công tác học tập, giảng dạy… mặc dù chưa nhiều và chưa phổ biến, nhưng đã phần nào tích lũy các thay đổi về lượng, tạo những tiền đề cơ bản để chuẩn bị cho những thay đổi về chất của giáo dục đại học ở nước ta sau này. Tuy nhiên để có những thay đổi tích cực và mạnh mẽ hơn đòi hỏi phải có một sự định hướng rõ rệt từ phía nhà nước, sự thay đổi trong nhận thức của các nhà làm công tác giáo dục, và ý thức của tất cả mọi người về một nhu cầu đổi mới toàn diện, để có một phương pháp giáo dục đại học tiến bộ, phù hợp với hoàn cảnh nước ta, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
·        Tự do học thuật để thúc đẩy NCKH ở Việt nam
Tinh thần cốt lõi của Tự do học thuật là biến Đại học trở thành một môi trường lý tưởng cho học tập và nghiên cứu, ở đó chỉ có tri thức được tôn thờ. Mọi quan điểm, học thuyết, tư tưởng đều được nghiên cứu và trao đổi một cách nghiêm túc, thẳng thắn, cởi mở để tìm ra được những tri thức đúng đắn, nhằm ứng dụng vào cuộc sống, đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Ở đó, không có khái niệm gọi là vùng cấm hay nhạy cảm không được đụng đến. Mọi tri thức đều phải được kiểm chứng và đánh giá dưới nhãn quan khoa học.
Từ định nghĩa trên, đối chiếu với bối cảnh Việt Nam, ta nhận thấy nhiều quy định hiện nay của cơ quan quản lý nhà nước và các cơ sở giáo dục Đại học ở Việt Nam chưa đảm bảo nguyên tắc Tự do học thuật này. Tư duy quản lý ở Việt Nam từ trung ương đến cơ sở vẫn còn nặng về thủ tục hành chính theo kiểu "xin cho". Đại học ở Việt Nam chưa được xem là một đơn vị độc lập có quyền tự chủ về hoạt động giáo dục và nghiên cứu như ở các nước phát triển. Mọi vấn đề của đại học từ tuyển sinh, mở ngành, công nhận kết quả, cấu trúc chương trình, giáo trình, cách đánh giá, ngân sách hoạt động... đều phải thông qua Bộ GD-ĐT & các cơ quan quản lý nhà nước.
Trên thực tế, mô hình quản lý trói buộc như trên đã tỏ ra thiếu hiệu quả, và kiềm hãm sự phát triển của hoạt động giáo dục và NCKH. Điều này thể hiện cụ thể ở nhiều mặt, như: GV. không có hứng thú làm NCKH, chất lượng đào tạo thấp, năng lực của SV. tốt nghiệp không đáp ứng nhu cầu xã hội, và sản phẩm giáo dục thường bị đánh giá thấp bởi các doanh nghiệp sử dụng lao động... Hiện tượng thiếu tin tưởng của các bậc phụ huynh đối với hệ thống giáo dục trong nước khi cho con em đi "tỵ nạn giáo dục" ngày càng phổ biến, các biểu hiện tiêu cực trong ngành giáo dục ngày càng nhiều về số lượng và càng nghiêm trọng về bản chất... đều là những chỉ dấu cho thấy giáo dục Đại học Việt Nam hiện có quá nhiều vấn đề, và rơi vào tình trạng khủng hoảng toàn diện. Chính vì vậy, hiện nay đã có sự đồng thuận rất lớn trong xã hội là cần phải có một cuộc cải cách toàn diện ngành Giáo dục. Phải thay đổi toàn bộ, từ triết lý giáo dục, tư duy quản lý, giáo trình, cách đánh giá, cho đến các chính sách cụ thể... mới mong có thể cải thiện chất lượng giáo dục và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, điểm then chốt nhất của đợt cải cách giáo dục này là phải tạo điều kiện để đảm bảo môi trường tự do học thuật cho các trường Đại học. Có như vậy, mới tạo ra những tiền đề căn bản và điều kiện cần thiết cho những thay đổi sâu rộng hơn trong ngành Giáo dục.
Để phát triển trong nền kinh tế tri thức, Đại học cần phải là thành trì vững chắc nhất cho những tâm hồn khát khao chân lý và là nơi bất khả xâm phạm để các nhà trí thức có thể yên tâm nghiên cứu, sáng tạo mà không lo sợ "phạm húy" hay bị đem ra "đấu tố" một ngày nào đó. Nếu thực trạng thiếu tự do học thuật vẫn còn duy trì, thì mọi nổ lực cải cách giáo dục đại học Việt Nam sẽ không đạt được kết quả như kỳ vọng của xã hội. Bởi, bỏ qua tự do học thuật, mọi vấn đề cải cách chỉ giải quyết được phần ngọn mà không chạm đến được phần gốc rễ, hay nguyên nhân cốt lõi của nó.
Chỉ có một môi trường Tự do học thuật thật sự mới có thể đảm bảo Đại học làm tốt vai trò của nó trong thời đại tri thức, là cái nôi ươm mầm cho những đóa hoa tri thức, cho sự sáng tạo các tư tưởng mới và cho khát vọng vươn tới những chân trời tri thức. Nếu muốn thay đổi, chúng ta phải biết vượt qua những rào cản hiện tại, để có thể hái được trái cấm trên cây tri thức của nhân loại. Có như thế, Đại học mới có thể tạo ra những người trí thức đúng nghĩa, có năng lực sáng tạo, tự tin trong việc tìm kiếm tri thức và giải quyết các vấn đề đầy khó khăn và phức tạp mà thời đại đang đặt ra.

Wednesday, September 14, 2016

Sáng tạo, đổi mới trong nền kinh tế tri thức

Sáng tạo, đổi mới trong nền kinh tế tri thức

Toàn cầu hóa và sự thay đổi nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã khiến mọi thứ nhanh chóng trở nên lạc hậu, và không còn phù hợp nữa, nếu không đổi mới, thay thế thì chúng có thể trở thành những rào cản cho sự phát triển và tiến bộ của tổ chức và xã hội. Nhu cầu đổi mới này không chỉ giới hạn ở các tổ chức kinh doanh, mà nó đã nhanh chóng mở rộng cả về phạm vi (quốc gia, khu vực, quốc tế), và cả về lĩnh vực (chính trị, văn hóa, xã hội…). 
Theo Stiglitz, một nhà kinh tế lớn của World Bank, ngày nay, tri thức đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế và đảm bảo phúc lợi xã hội. Vì vậy, cần phải xem xét các vấn đề phát triển kinh tế dưới góc nhìn tri thức, ở đó, giáo dục đóng một vai trò dẫn dắt cho sự phát triển. Trong nền kinh tế tri thức đó, sáng tạo và đổi mới là cực kỳ quan trọng.
Hơn nữa, theo Savage (1996) trong tác phẩm “Fifth Generation Management”, xã hội loài người đang bước vào làn sóng thứ 3 của sự phát triển: làn sóng thứ 1 là thời đại Nông nghiệp, sự giàu có đặt trên việc sở hữu đất đai; làn sóng thứ 2 là thời đại Công nghiệp, sự thịnh vượng dựa trên sự sở hữu vốn tư bản; và làn sóng thứ 3 là thời đại Tri thức, sự thịnh vượng đặt trên việc sở hữu tri thức và khả năng sử dụng tri thức để tạo ra và cải tiến các sản phẩm và dịch vụ. Chính vì vậy, ở thời đại này, quốc gia nào tạo được nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nguồn vốn trí tuệ (phát triển giáo dục, thu hút nhiều nhân tài hơn, khuyến khích sáng tạo…) và biến nó thành giá trị nhằm phát triển đất nước thì sẽ có được vị thế cao trong cộng đồng quốc tế.
Sáng tạo và đổi mới là 2 khái niệm thường đi liền với nhau và có ý nghĩa tương đồng với nhau. Tuy nhiên, đổi mới thường chỉ đến những thay đổi về phương pháp hoặc quy trình ở phạm vi tổ chức hoặc quốc gia, còn sáng tạo thường chỉ đến năng lực tạo ra tri thức mới của cá nhân (Boulden, 2004). Thuật ngữ “đổi mới sáng tạo” khi gộp chung thường được hiểu là quá trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ và quy trình mới nhằm tăng năng suất, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và tính cạnh tranh trên thị trường. Đổi mới sáng tạo (Innovation) cũng là quá trình biến những ý tưởng mới, kiến thức mới thành các sản phẩm, dịch vụ và quy trình mới, đáp ứng nhu cầu của thị trường, mang lại lợi ích thiết thực cho người lao động và xã hội. Nói tóm lại, đổi mới & sáng tạo chính là hoạt động tạo ra tri thức mới, làm phát triển nguồn vốn trí tuệ, góp phần nâng cao giá trị của sản phẩm, dịch vụ, tăng năng suất lao động, cải thiện hiệu quả công việc và chất lượng cuộc sống.
Trong các nghiên cứu hàn lâm, “đổi mới” thường được phân thành 2 loại là: đổi mới tiệm tiến (incremental innovation), và đổi mới đột phá (disruptive innovation). Đổi mới tiệm tiến chỉ đến các sáng kiến, cải cách, sửa đổi nhỏ để hoàn thiện dần sản phẩm, quy trình. Còn đổi mới đột phá chỉ đến các thay đổi mang tính cách mạng, như là: công nghệ, giải pháp, sản phẩm mới hoàn toàn, nó góp phần thay đổi thị trường, tạo ra cách tiếp cận mới, hoặc thay đổi thang giá trị sẳn có.
Ở Nhật, có một thuật ngữ tương tự như đổi mới tiệm tiến, đó là "Kaizen". Tuy nhiên, kaizen đã được phát triển và trở thành một triết lý được áp dụng một cách sinh động trong nhiều công ty, tổ chức của Nhật Bản. Về mặt từ nguyên, “Kai” có nghĩa là “thay đổi”, còn Zen có nghĩa là “trở nên tốt hơn”. Triết lý Kaizen đề ra 5 yếu tố nền tảng và 3 nguyên lý. Năm yếu tố nền tảng của Kaizen bao gồm: (1) Làm việc nhóm (Teamwork), (2) Kỷ luật tự thân (Personal discipline), (3) Phát huy ý chí (Improved morale), (4) Vòng tròn chất lượng (Quality circles), (5) Đề xuất cải tiến (Suggestions for improvement). Ngoài ra, kaizen còn phát triển 3 nguyên lý là: (1) Loại bỏ lãng phí và kém hiệu quả, (2) Áp dụng nguyên tắc 5S (gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, trật tự, kỷ luật) cho quản lý văn phòng và gia đình, và (3) Chuẩn hóa.
Ở Việt Nam, ta thường nghe nhiều đến cụm từ "đổi mới", đặc biệt là liên quan đến chính sách mở cửa nền kinh tế từ những năm 1980. Tuy nhiên, khái niệm “đổi mới” thường có ý nghĩa vĩ mô, ở phạm vi nhà nước, mà ít gắn với các hoạt động của doanh nghiệp. Trong khi, khái niệm “sáng kiến”, “sáng tạo” lại thường được hiểu ở khía cạnh vi mô, gắn trực tiếp với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. 
Một thế kỷ trước, cụ Phan Bội Châu đã đến Nhật tiếp thu triết lý kaizen và đề xướng phong trào Duy Tân ở nước ta. Rất tiếc là phong trào Duy Tân kéo dài không lâu, nên cũng chưa tạo được thay đổi nào đáng kể, và chưa tạo được ảnh hưởng sâu rộng trong lối suy nghĩ và lối sống của người Việt Nam. Để tiếp nối ý nguyện đó, đồng thời đưa đất nước phát triển trong thời đại tri thức này, việc khuyến khích đổi mới sáng tạo, ở cả phạm vi nhà nước và doanh nghiệp là cấp bách hơn bao giờ hếtđối với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Lúc này, nếu không đổi mới, cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận nhìn thấy đất nước mình sẽ tụt hậu ngày càng xa trong cuộc tranh đua quốc tế, mà tốc độ và mức độ cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Thời đại ngày nay đòi hỏi chúng ta phải hành động một cách nhanh chóng, dứt khoát và không thể chần chừ hơn nữa, bởi nếu chần chừ trong việc đổi mới nghĩa là chúng ta đã có tội với các thế hệ cha ông vì đã không thực hiện được mong mỏi của các vị, và cũng có tội cả với các thế hệ con cháu sau này khi để đất nước ngày càng tụt hậu so với các nước khác trên thế giới.
Trách nhiệm to lớn này đặt lên vai tất cả mọi người Việt Nam, đặc biệt là trông chờ ở thế hệ trẻ, những người có đầu óc dám đổi mới, biết học hỏi, tiếp thu tri thức khoa học và công nghệ, tạo ra những giá trị độc sáng dựa trên tri thức và óc sáng tạo, đưa đất nước vững bước phát triển đi lên theo kịp với các nước tiên tiến trên thế giới. Chỉ có con đường đổi mới và sáng tạo không ngừng mới có thể đưa đất nước cất cánh đi lên, mang lại sự thịnh vượng, ấm no cho cả dân tộc, và giúp người Việt Nam có thể hãnh diện “sánh vai” cùng bạn bè năm châu, bốn biển, như ước vọng muôn thuở của cha ông ta.
Nhiều nghiên cứu trước (Nonaka & ctg., 2010; Carr, 2013) đã chỉ ra rằng năng lực sáng tạo của cá nhân không những phụ thuộc vào kiến thức của họ, mà còn phụ thuộc vào khả năng tư duy và nhìn nhận vấn đề một cách khác biệt, từ đó khám phá ra cách thức mới hoặc phương pháp mới để giải quyết vấn đề. Ở mức độ tổ chức, năng lực đổi mới sáng tạo gắn liền với quá trình quản lý nguồn vốn tri thức, và biến nó thành các giá trị của tổ chức dưới dạng sáng chế và sáng kiến. Sáng chế và sáng kiến là 2 khái niệm khá gần gũi và thường được hiểu giống nhau. Tuy nhiên, cụ thể hơn, sáng chế là chỉ đến 1 giải pháp cho 1 vấn đề kỹ thuật (có thể là 1 ý tưởng đổi mới, hoặc 1 mô hình hoặc sản phẩm mẫu vận hành được); còn sáng kiến là chỉ đến việc chuyển sáng chế thành các sản phẩm hoặc quy trình có thể bán được trên thị trường (Cục SHTT, 2008). Ngày nay, để nâng cao năng lực sáng tạo, các tổ chức đều phải đầu tư đáng kể vào hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), đồng thời, phải tạo ra một môi trường văn hóa cởi mở, thân thiện và có chính sách hỗ trợ hoạt động sáng tạo của các cá nhân trong tổ chức.
Trong nền kinh tế ngày nay, việc quản lý sáng kiến trong công ty đòi hỏi nhà quản lý phải có một kiến thức vững vàng về hệ thống sáng chế để đảm bảo công ty có thể thu được lợi ích tối đa từ khả năng đổi mới và sáng tạo của mình. Ngoài ra, tổ chức cần xây dựng quan hệ đối tác có lợi (bao gồm: quy chế bảo mật, quy chế quản trị tài sản trí tuệ, hợp đồng chuyển giao công nghệ, mua/ bán li xăng…) với các chủ thể sáng chế và cần tránh việc sử dụng trái phép công nghệ do người khác sở hữu. Khác với trước đây, nhiều sáng kiến ngày nay rất phức tạp và phải dựa trên nhiều sáng chế thuộc sở hữu của nhiều chủ sở hữu sáng chế khác nhau.
Đứng từ góc độ luật về sở hữu trí tuệ, đầu ra của quá trình sáng tạo và đổi mới chính là những sản phẩm trí tuệ, chúng được tạo ra theo một chuỗi giá trị bên trong 1 tổ chức, bao gồm: hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D), sản xuất, bán hàng & tiếp thị… hoặc liên tổ chức, như: nghiên cứu & phát triển, chuyển giao tri thức (đại học, viện nghiên cứu), thử nghiệm, sản xuất & tiêu thụ (doanh nghiệp). Tuy nhiên, để được bảo hộ bởi luật sở hữu trí tuệ và mang lại giá trị cho tổ chức, các ý tưởng, sáng kiến phải biến thành các tài sản trí tuệ, được đăng ký bảo hộ với cơ quản quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, dưới các hình thức như: quyền tác giả, bằng độc quyền sáng chế, giải pháp hữu ích, bí mật kinh doanh, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu …
Đối với cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, một ý tưởng sản phẩm, quy trình hay công nghệ mới muốn được bảo hộ, cần phải thỏa mãn các tiêu chí, trong đó 2 tiêu chí quan trọng nhất là tính sáng tạotính mới. Tính sáng tạo được hiểu là đối tượng phải chưa được công bố và có khác biệt đáng kể với những đối tượng đã được bộc lộ công khai trước đó. Tính mới được hiểu là đối tượng cần bảo hộ phải không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình trong lĩnh vực đó (điều này đòi hỏi sự nổ lực, kiến thức, và khả năng tư duy của tác giả).

Trong xu thế chú trọng vào sáng tạo và đổi mới đó, một khái niệm cũng có liên quan và được thảo luận nhiều trong thời gian gần đây là sáng nghiệp (entrepreuneuship). Có thể xem sáng nghiệp/ khởi nghiệp là mức cao nhất của quá trình đổi mới và sáng tạo, bởi nó không chỉ hướng tới việc cải tiến quy trình, công nghệ, hay tạo ra một sản phẩm/ dịch vụ mới, mà nó còn hướng tới việc đem những ý tưởng mới vào kinh doanh, hoặc lập ra một doanh nghiệp mới dựa trên những sáng kiến, hoặc những kết quả thu được từ quá trình sáng tạo, đổi mới. Ngày nay, các trường đại học, viện nghiên cứu và chính phủ đều bắt đầu đề cập đến tầm quan trọng của khởi nghiệp, và thúc đẩy đào tạo về khởi nghiệp nhằm tạo ra sự năng động của nền kinh tế, và đảm bảo sự cạnh tranh hiệu quả trong thế kỷ 21.
(Nguồn: Giáo Trình Quản lý Tri Thức, NXB. Xây dựng, 2016)
---
PS. Bạn nào quan tâm đến lĩnh vực này có thể tìm đọc Giáo trình trên ở quầy sách ĐHBK nhé!