Lời Phật dạy

"Không làm các việc ác, Siêng làm các điều lành, Giữ tâm ý trong sạch, Đó là lời Phật dạy!" (Kinh Pháp Cú)
Showing posts with label dnvvn. Show all posts
Showing posts with label dnvvn. Show all posts

Friday, October 8, 2010

Nhu cầu quản lý tri thức trong DNVVN


Nhu cầu quản lý tri thức trong DNVVN

Phạm Quốc Trung, NCS. ngành Kinh Tế, ĐH. Kyoto, Nhật Bản


Khi đề cập đến doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN), mọi người thường nghĩ đến những khó khăn mà họ gặp phải, như: thiếu vốn, thiếu nhân lực, công nghệ lạc hậu, quản lý yếu kém, bị đối xử bất bình đẳng… Tuy nhiên, trong thời đại tri thức và toàn cầu hóa ngày nay, DNVVN cũng có những thế mạnh riêng và cũng cần phải áp dụng mô hình quản lý hiện đại như quản lý tri thức (QLTT) để có thể tồn tại và cạnh tranh hiệu quả với các doanh nghiệp lớn hơn. Bài viết này nhằm chỉ ra nhu cầu áp dụng QLTT trong các DNVVN là rất cần thiết ở Việt Nam và cả ở phạm vi thế giới.

1. Tầm quan trọng của tri thức trong thời đại ngày nay

Trong thế kỷ 21, tri thức ngày càng trở nên quan trọng cho việc phát triển bền vững của một doanh nghiệp cũng như của một quốc gia. Trong các tổ chức hiện đại, tri thức được xem là một trong những yếu tố thành công chủ yếu và quản lý tri thức trở thành một chiến lược cạnh tranh hiệu quả nhất.

Ngày nay, cả thế giới đang bước vào kỷ nguyên thông tin và tri thức, ở đó, tổ chức hay quốc gia nào quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên tri thức của mình sẽ có được những lợi thế cạnh tranh nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của tổ chức hay quốc gia của mình.

Ngoài ra, theo Stiglitz, một nhà kinh tế lớn của World Bank, tri thức đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế và đảm bảo phúc lợi xã hội. Ông ta còn đề nghị cần phải xem xét các vấn đề phát triển dưới góc nhìn tri thức, ở đó, giáo dục đóng một vai trò dẫn dắt cho sự phát triển. Trong nền kinh tế tri thức đó, sáng tạo là cực kỳ quan trọng, vì vậy các doanh nghiệp nhỏ có thể cung cấp những nền tảng cho sự đổi mới của xã hội tốt hơn nhiều so với các doanh nghiệp to lớn cồng kềnh.

2. Vai trò ngày càng quan trọng của DNVVN

Ngày nay, DNVVN (doanh nghiệp có dưới 300 nhân viên) chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng số các doanh nghiệp trên thế giới (#95% tổng số doanh nghiệp). Ở Việt Nam, số lượng DNVVN là 98% và đóng góp hơn 50% vào tổng GDP. Vì vậy, DNVVN ngày càng quan trọng và trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia và cả thế giới. Trong đợt khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua, mọi người đều nhận thấy vai trò quan trọng của DNVVN trong việc tạo ra việc làm, duy trì tính năng động của thị trường lao động, hay thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương và các quốc gia.

Hơn nữa, với sự phát triển nhanh chóng của CNTT-VT (công nghệ thông tin – viễn thông), thương mại điện tử và trào lưu toàn cầu hóa, DNVVN càng đóng một vai trò quan trọng trong việc gắn kết chuỗi cung ứng toàn cầu. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ còn hỗ trợ các DNVVN trở thành yếu tố chính cho sự đổi mới kinh tế. Khác với các doanh nghiệp lớn, DNVVN dễ dàng thay đổi và thích nghi nhanh chóng hơn với những nhu cầu của thị trường và áp lực của nền kinh tế. Trên thực tế, có một số DNVVN đã có thể cạnh tranh một cách hiệu quả với các doanh nghiệp lớn trong thế giới số ngày nay dựa trên chính tri thức và năng lực đổi mới của mình.

3. Quản lý tri thức trong DNVVN – một nhu cầu bắt buộc

Trong xã hội tri thức, trước sau gì, các DNVVN cũng phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác dựa trên tri thức của mình và khả năng biến các tri thức đó thành giá trị thông qua sản phẩm hay dịch vụ. Trong kỷ nguyên tri thức và nền kinh tế toàn cầu hóa, DNVVN sẽ phải tự thích nghi với điều kiện mới để có thể tồn tại và phát triển. Bởi vì làn sóng của kỷ nguyên tri thức đang đến và sẽ ảnh hưởng đồng đều đến mọi tổ chức và mọi quốc gia, DNVVN cũng không tránh khỏi ảnh hưởng đó. Chính vì vậy, QLTT sẽ trở nên quan trọng đối với DNVVN cũng như đối với doanh nghiệp lớn. Điều này đòi hỏi DNVVN phải chủ động áp dụng QLTT để có thể đối phó hiệu quả với những thay đổi đó.

Mặt khác, toàn cầu hóa cũng khiến cho thế giới trở nên phẳng hơn và xu thế cạnh tranh dựa trên tri thức sẽ nhanh chóng lan rộng trên toàn thế giới. Ở Nhật Bản, một nước công nghiệp phát triển, DNVVN cũng được xem là nguồn lực của đổi mới và đảm bảo sự phát triển bền vững. Chính phủ Nhật cũng ban hành nhiều chính sách nhằm hỗ trợ cho việc đổi mới công nghệ, sản phẩm và dịch vụ ở các DNVVN, từ đó giúp các doanh nghiệp này có thể cạnh tranh một cách hiệu quả trong nền kinh tế tri thức. Vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển, các DNVVN ở một nước đang phát triển như Việt Nam buộc phải áp dụng QLTT mới có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp của các nước phát triển dựa trên sức mạnh tri thức và khả năng đổi mới của mình.

Tuy nhiên, so với các doanh nghiệp lớn, hầu hết các DNVVN đều không có đủ nguồn lực cho việc đầu tư vào nghiên cứu-phát triển, áp dụng công nghệ mới, hay triển khai hệ QLTT. Do đó, đòi hỏi một nổ lực rất lớn từ phía các DNVVN cũng như sự hỗ trợ từ chính phủ để biến các DNVVN thành những doanh nghiệp hướng tri thức. Điều quan trọng trước mắt là các DNVVN cần phải biết rõ hiện trạng của mình, cải thiện mức độ trưởng thành về CNTT-VT, và áp dụng một cách tiếp cận QLTT phù hợp. Có như vậy, DNVVN mới có thể cải thiện năng lực cạnh tranh và khả năng đổi mới của mình. Từ đó, sử dụng hiệu quả nguồn lực tri thức và con người của mình, đảm bảo khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững trong một xã hội tri thức.

4. Thực trạng quản lý tri thức trong DNVVN của Việt Nam

Cùng với sự đổi mới và phát triển kinh tế của đất nước, DNVVN ở Việt Nam cũng có sự phát triển nhanh chóng, đặc biệt là từ sau khi có luật Doanh Nghiệp vào năm 2000. Tuy nhiên, theo những nghiên cứu gần đây, mặc dù có sự phát triển ấn tượng, nhưng DNVVN vẫn còn rất yếu về nhiều mặt, như: thiếu sự gắn kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, năng lực cạnh tranh yếu, ít đổi mới, nhân sự không ổn định, và chưa sẳn sàng cho việc hội nhập.

Theo Vũ Hồng Dân, Trung Tâm Năng Suất Chất Lượng Việt Nam, DNVVN của Việt Nam dần nhận được sự quan tâm và hỗ trợ từ chính phủ nhưng chưa nhiều, như là: có văn phòng hỗ trợ DNVVN, một số chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN… Với sự hỗ trợ đó, việc ứng dụng QLTT trong DNVVN sẽ dần được thúc đẩy và triển khai nhiều hơn. Tuy nhiên hiệu quả đạt được còn thấp, đến nay, việc áp dụng QLTT trong DNVVN ở nước ta còn rất ít và số trường hợp triển khai thành công hệ QLTT trong thực tế chưa thấy được ghi nhận.

Dựa trên một nghiên cứu trước đây của chúng tôi (2009), mức độ ứng dụng QLTT trong các DN Việt Nam nói chung là ở mức trung bình (3.5/ 5). Mức độ này cho thấy môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã sẳn sàng cho các giải pháp QLTT. Ngoài ra, với đà phát triển nhanh chóng của ứng dụng CNTT-VT trong các doanh nghiệp, như: SCM, CRM, ERP, mạng xã hội…, thì việc triển khai hệ QLTT vào thời điểm hiện nay là thích hợp. Càng sớm triển khai các giải pháp QLTT thì các DNVVN sẽ càng sớm tạo được lợi thế cạnh tranh và đảm bảo được sự phát triển bền vững của mình. Tuy nhiên, việc triển khai thành công một hệ QLTT là một bài toán khó cho các DNVVN về nhiều mặt, như: sự nhận thức, nguồn lực, công nghệ, quá trình triển khai... Phải có một quyết tâm và chiến lược đúng đắn từ phía doanh nghiệp, cũng như sự khuyến khích, hỗ trợ từ phía chính phủ thì mới có thể vượt qua những khó khăn và áp dụng thành công QLTT.

Tóm lại, tri thức là một tài sản vô giá mà mỗi doanh nghiệp, mỗi đất nước phải biết cách quản lý để có thể cạnh tranh hiệu quả và phát triển bền vững trong một xã hội tri thức. Với xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển của CNTT-VT, việc áp dụng QLTT trong các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN, trở thành một nhu cầu bắt buộc. Chính các DNVVN phải nhận lấy trách nhiệm tiên phong trong việc ứng dụng QLTT để có thể chuyển mình theo chiều hướng tri thức, tăng cường được năng lực cạnh tranh dựa trên tri thức, phát huy nguồn lực con người, và tận dụng được sức mạnh của CNTT-VT. Áp dụng thành công QLTT trong DNVVN chính là chìa khóa để mở cánh cửa của nền kinh tế tri thức.

Saturday, May 8, 2010

MỨC ĐỘ TRƯỞNG THÀNH VỀ CNTT-VT CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

MỨC ĐỘ TRƯỞNG THÀNH VỀ CNTT-VT
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

Phạm Quốc Trung
Khoa Quản lý Công nghiệp, Đai học Bách khoa Tp.HCM, Việt Nam
pqtrung@sim.hcmut.edu.vn

(Tóm lược bài báo khoa học đã đăng ở Hội nghi KHCN ĐHBK Tp.HCM lần 11 - 2009)

TÓM TẮT

Bài báo này giới thiệu 1 mô hình để đo mức độ trưởng thành về công nghệ thông tin-viễn thông (CNTT-VT) của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Bốn yếu tố chính của mô hình là: Hạ tầng, Ứng dụng, Nhân lực và Chính sách CNTT-VT. Dựa trên phân tích xu hướng, bài báo đề xuất lộ trình 5 giai đoạn về mức độ phát triển CNTT-VT trong DNVVN là: Chưa ứng dụng, Mức căn bản, Phổ biến, Ứng dụng web và Hướng tri thức. Trong đó Hướng tri thức là mức độ phát triển cao nhất. Ngoài ra, một bảng câu hỏi cũng được thiết lập để đo lường mức độ trưởng thành về CNTT-VT của DNVVN, và đã được áp dụng thực tế cho việc đánh giá các DNVVN ở Việt Nam. Công cụ này rất hữu ích cho các DNVVN để đánh giá hiện trạng của mình. Đây có thể là bước đầu tiên nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả quản l‎í theo hướng tri thức trong thời đại tri thức.

1. GIỚI THIỆU

Trong các tổ chức hiện đại, tri thức là một trong những yếu tố thành công quan trọng. Đặc biệt trong kỷ nguyên công nghệ thông tin và tri thức, nếu tổ chức nào quản lý tốt tài nguyên tri thức của mình, tổ chức đó sẽ có được lơi thế cạnh tranh và đảm bảo được sự phát triển bền vững. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất trong quản lý tri thức là chia sẻ tri thức trong tổ chức, một vấn đề phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của hạ tầng CNTT-VT của tổ chức đó.
Hơn nữa, với sự phát triển nhanh chóng của CNTT-VT, thương mại điện tử và xu thế toàn cầu hóa, doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) ngày càng trở nên quan trọng. Ngày nay, DNVVN là bộ phận rất lớn và đóng góp hơn 50% vào tổng GDP của toàn thế giới. So với các doanh nghiệp lớn, DNVVN nhanh hơn, dễ thay đổi và thích nghi hơn với nhu cầu thị trường và áp lực của nền kinh tế. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ cũng giúp các DNVVN trở thành động lực chính cho sự đổi mới của nền kinh tế.
Tuy nhiên, so với các doanh nghiệp lớn, DNVVN không có đủ nguồn lực cho việc đầu tư và phát triển hạ tầng CNTT-VT của mình. Những nhà quản lý các DNVVN thường không biết loại ứng dụng CNTT-VT nào phù hợp với họ, phải nên bắt đầu từ đâu hay có nên triển khai các hệ thống thông tin hiện đại như ERP (hệ thống quản lý nguồn lực doanh nghiệp), KMS (hệ quản lý tri thức)… hay không? Để trả lời những câu hỏi này, họ cần phải biết hiện trạng ứng dụng CNTT-VT của mình như thế nào. Chỉ khi biết được tình trạng hiện tại, họ mới có thể quyết định loại ứng dụng CNTT-VT nào là phù hợp, tại sao và khi nào thì nên triển khai để đạt được hiệu quả kinh doanh tốt hơn.
Trong xu thế của toàn cầu hóa, một công cụ cần thiết để đo lường độ trưởng thành CNTT-VT là cực kỳ quan trọng. Biết được tình trạng hiện tại, tích hợp các ứng dụng CNTT-VT phù hợp với các tiến trình kinh doanh vào đúng thời điểm, các DNVVN có thể cải thiện năng lực cạnh tranh và phát triển khả năng đổi mới của mình, sáng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, những yếu tố rất quan trọng để tồn tại và phát triển trong một xã hội tri thức. Mục tiêu của bài báo này nhằm xây dựng 1 công cụ để đo lường mức độ trưởng thành về CNTT-VT của DNVVN và áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam.

2. ĐỊNH NGHĨA VÀ MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG ĐỘ TRƯỞNG THÀNH CNTT-VT

DNVVN (doanh nghiệp vừa và nhỏ) : có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm này, tùy từng khu vực và quốc gia, trong bài báo này, chúng tôi sử dụng định nghĩa của Liên hiệp Châu Âu, cũng được sử dụng khá phổ biến trên thế giới, đó là “DNVVN là các doanh nghiệp có ít hơn 250 nhân viên”. Định nghĩa này có khác biệt chút đỉnh với định nghĩa đang sử dụng tại Việt Nam, nhưng với định nghĩa này, số lượng DNVVN vẫn là bộ phận lớn nhất trong tổng số các doanh nghiệp hiện tại của Việt Nam.
Độ trưởng thành về CNTT-VT: ‘Độ trưởng thành’ là trạng thái phát triển hoàn thiện, còn, ‘CNTT-VT’ là viết tắt của Công nghệ thông tin - Viễn thông, vì vậy, ‘Độ trưởng thành về CNTT-VT’ là trạng thái của một doanh nghiệp khi nó đạt đến mức độ hoàn thiện trong việc ứng dụng CNTT-VT trong hoạt động kinh doanh của mình.
Theo mô hình về Độ trưởng thành về Quản lý tri thức (Kochikar, 2000), có 5 cấp độ trưởng thành của 1 tổ chức là: Mặc nhiên, Phản ứng, Nhận thức, Chắc chắn và Chia sẻ. Những cấp độ này tập trung vào sự hoàn thiện của các kỹ năng nhân sự và tiến trình kinh doanh. Khái niệm Độ trưởng thành về CNTT-VT dựa trên mô hình này, và bổ sung thêm 2 yếu tố, đó là sự hoàn thiện về công nghệ và chính sách.
Nói chung, để đo lường Độ trưởng thành về CNTT-VT, mô hình sau đây được sử dụng, trong đó 4 yếu tố chính là: Chính sách CNTT-VT, Hạ tầng CNTT-VT, Ứng dụng CNTT-VT và Nhân sự CNTT-VT.


H.1. Mô hình đo lường mức độ trưởng thành về CNTT-VT của doanh nghiệp

Dựa trên một phân loại trong nghiên cứu trước đây về sự phát triển CNTT-VT của DNVVN (Chesser & Skok, 2000), với những điều chỉnh cho phù hợp với các xu hướng phát triển gần đây, cũng như đánh giá các điều kiện cho sự trưởng thành về Quản lý tri thức, một mức độ phát triển cao về CNTT-VT của doanh nghiệp trong xã hội tri thức, một lộ trình gồm năm giai đoạn được đề xuất như sau:
• Chưa ứng dụng – hiện tại chưa sử dụng CNTT-VT trong doanh nghiệp
• Mức căn bản – bao gồm các ứng dụng văn phòng và một số phần mềm căn bản
• Phổ biến – mở rộng việc kết nối mạng và triển khai những ứng dụng trong kinh doanh
• Ứng dụng web – áp dụng thương mại điện tử với nhiều ứng dụng dựa trên nền web
• Hướng tri thức – tích hợp các ứng dụng, sử dụng phối hợp nhiều công cụ CNTT-VT phục vụ đổi mới và quản lý tri thức.
Ở mức độ trưởng thành cao nhất về CNTT-VT, mức Hướng tri thức, các đặc tính cơ bản của doanh nghiệp sẽ thay đổi như sau : hạ tầng CNTT-VT sẽ hướng đến việc gia tăng kết nối và di động thông qua việc sử dụng các thiết bị không dây và điện thoại di động; ứng dụng CNTT-VT sẽ hướng đến việc tích hợp các hệ thống thông tin và các mô hình kinh doanh để tạo thành doanh nghiệp điện tử; kỹ năng nhân sự sẽ đạt đến trình độ cao, làm chủ những kỹ năng phức tạp và chú trọng nhiều đến sáng tạo, đổi mới; chính sách CNTT-VT sẽ thay đổi để trở nên năng động hơn và sử dụng nguồn lực ngoài nhiều hơn.

3. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU

Một bảng câu hỏi được xây dựng dựa trên các đặc trưng của 5 mức độ về hoàn thiện CNTT-VT trong các doanh nghiệp. Từ bảng câu hỏi này, một cuộc thăm dò đã được thực hiện trên thực tế để thử nghiệm công cụ và đo lường mức độ trưởng thành về CNTT-VT của các DNVVN ở Tp.HCM trong thời gian 3 tháng (12/2008 - 2/2009). Cỡ mẫu được chọn là 150 doanh nghiệp, chọn ngẫu nhiên từ cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Kết quả phản hồi là 57,3% (86 doanh nghiệp).
Các kết quả có thể tóm tắt như sau: chỉ số trưởng thành về CNTT-VT của doanh nghiệp Việt Nam hiện ở mức độ trung bình (Phổ biến) và cần phải được cải thiện hơn nữa. 8% ở mức Chưa ứng dụng, 30% ở mức Căn bản, 32% ở mức Phổ biến, 28% ở mức Ứng dụng web, và 2% ở mức Hướng tri thức. Đối với các DNVVN, chỉ số trưởng thành CNTT-VT cao nhất thuộc nhóm doanh nghiệp có từ 200-300 nhân viên. Theo loại hình doanh nghiệp, các công ty liên doanh có mức độ trưởng thành cao nhất (0.7), và các công ty tư nhân có mức độ trưởng thành thấp nhất (0.4). Không có sự khác biệt đáng kể giữa các ngành nghề kinh doanh về mức độ trưởng thành CNTT-VT. Khi so sánh với các yếu tố khác của chỉ số này, yếu tố nguồn nhân lực của các doanh nghiệp Việt Nam hiện ở mức độ thấp nhất, và nên được tập trung cải thiện trong thời gian tới để nâng cao mức độ trưởng thành về CNTT-VT của từng doanh nghiệp.
Khi so sánh mối tương quan giữa chỉ số trưởng thành về CNTT-VT và sự hài lòng của nhân viên, một yếu tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, kết quả cho thấy có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa 2 yếu tố này, nghĩa là mức độ trưởng thành về CNTT-VT càng cao thì sự hài lòng của nhân viên càng cao.

4. KẾT LUẬN

Nói chung, một doanh nghiệp khó có thể triển khai hệ thống quản lý tri thức mà không có 1 hạ tầng CNTT-VT phù hợp và những ứng dụng CNTT-VT trước đó. Hơn nữa, để nâng cao năng lực cạnh tranh của DNVVN, điều quan trọng là phải áp dụng những ứng dụng CNTT-VT phù hợp vào đúng thời điểm hơn là sử dụng các hệ thống thông tin hiện đại nhất. Bài báo này đóng góp vào khía cạnh thực tế của việc xây dựng một hệ thống quản lý tri thức bằng bước đi đầu tiên, đó là đo lường mức độ trưởng thành về CNTT-VT của doanh nghiệp. Dựa trên kết quả đo lường này, các DNVVN có thể lập ra 1 kế hoạch để cải thiện mức độ trưởng thành về CNTT-VT của mình để đạt dần đến mức cao nhất là Hướng tri thức, nhằm có thể sử dụng nguồn lực tri thức của mình ngày càng hiệu quả hơn, phục vụ cho các mục tiêu phát triển trong tương lai.
Ngoài ra, một bảng câu hỏi cũng đã được xây dựng, dựa trên danh sách các yếu tố cần thiết cho sự trưởng thành về CNTT-VT, như là một công cụ để áp dụng trong thực tế. Sử dụng công cụ này, một cuộc thăm dò thực tế đã được tiến hành đối với một số DNVVN của Việt Nam. Kết quả thu được giúp hiểu được phần nào về mức độ trưởng thành về CNTT-VT của các doanh nghiệp hiện nay.
Tuy nhiên, cũng còn một số hạn chế của công cụ này và cần được cải tiến hơn nữa trong tương lai. Các gợi ý cho những cải tiến hơn nữa là: tìm ra một công thức tính toán chỉ số tổng hợp về độ trưởng thành CNTT-VT theo trọng số, nghiên cứu các kế hoạch hành động phù hợp để cải tiến độ trưởng thành về CNTT-VT của DNVVN, đo lường và theo dõi mức độ trưởng thành về CNTT-VT của các DNVVN theo thời gian cho từng ngành, từng quốc gia để hỗ trợ việc ra chính sách của chính phủ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Chesser, M. & Skok, W., Road-map for Successful IT Transfer for Small Businesses, ACM, (2000).
2. EIU - The Economist & IBM Institute for Business Value, E-Readiness Report, EIU, (2007).
3. European Commission, The New SME Definition, Enterprise & Industry Publication, (2004).
4. International Telecommunication Union, Global ICT Opportunity Index Report, ITU, (2007).
5. Kim, S. & Lee, H., The impact of Organizational Context & Information Technology on employee Knowledge-Sharing Capabilities, Public Administration Review, (2006).
6. Kochikar, V.P. , The Knowledge Management Maturity Model: A Staged Framework for Leveraging Knowledge, KMWorld 2000, (2000).
7. United Nations , Measuring ICT: the Global Status of ICT Indicators, UN-ICT, (2005).
8. Vietnam National ICT Office, Vietnam ICT Index 2006, VAIP, (2006).
9. World Bank Institution, Knowledge Innovation & Knowledge Economy Index, WB, (2007).
10. World Economy Forum, Network Readiness Index Report, WEF, (2007).